Pics

Pics
Hiển thị các bài đăng có nhãn champa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn champa. Hiển thị tất cả bài đăng

2025/05/10

Từ [Lavuk Kyau] cho đến Kỳ-Co

 Từ [Lavuk Kyau] cho đến Kỳ-Co



Địa danh Kỳ Co, nằm tại xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, nổi tiếng với bãi biển đẹp hoang sơ.
Tuy nhiên, tên địa danh Kỳ-Co hầu như không có một giải thích nào thoả. Đa số cho rằng "Kỳ-Co bắt nguồn từ tiếng Chăm cổ "Kaico", có nghĩa là "eo nhỏ" hoặc "biển nhỏ". Theo thời gian, từ "Kaico" được người Việt hóa thành "Kỳ-Co" để dễ phát âm và ghi nhớ hơn.”
Hiện tại, không có thông tin chính thức về văn bản đầu tiên đề cập đến địa danh "Kỳ-Co" cũng như tên Hán Việt của địa danh này trong các tài liệu lịch sử hoặc thư tịch cổ. Các nguồn thông tin hiện nay chủ yếu tập trung vào mô tả vẻ đẹp thiên nhiên và tiềm năng du lịch của Kỳ-Co, mà không đề cập đến nguồn gốc tên gọi hay tên Hán Việt của địa danh này.
Qua đây, có thể cho chúng ta biết “Kỳ-Co” là tên địa danh mang tính dân gian, và chỉ được lưu truyền trong dân gian mà không đi vào các văn bản hành chính, lịch sử nào.
Tuy nhiên, dựa vào dữ kiện văn hoá, văn khắc Champa, ta có thể “tạm” đưa ra một lý giải cho tên địa danh Kỳ-Co này.
Trong văn khắc C.47 ( Qui Nhơn, Bình Định), nội dung mô tả về vị vua kế vị là Pō Ku Śri Vīrabhadravarmadeva đã thực hiện nghi lễ cúng dường cho ngôi đền tại vùng đất mà gia đình và tổ tiên của ngài đã an vị trước đó, với các vật phẩm được lấy từ cánh đồng vua cha (rājapita) ỏ vùng [luvuk kyau] (di luvuk kyau) tại dòng (12) của văn khắc.
Vậy địa danh [luvuk kyau] có ý nghĩa gì?
[luvuk kyau] với: -[luvuk] có nghĩa là vũng, vực, đôi khi được viết bằng [lubuk], [lubuk] này đã phái sinh ra [kabung] trong tiếng Cham hiện đại với nghĩa tương đương.
-[kyau] có nghĩa là kính, thuỷ tinh, pha lê, hay loại đá quý có độ lấp lánh trong suốt.
[kyau] = /kjaːw/ = /kʲ/+/aːw/ . Với /kj/ đọc như “ki” trong tiếng Việt và /aːw/ đọc như “au” với nguyên âm [a] kéo dài. Tương đương nghĩa với "kyaḥ, kyak, kreh" trong tiếng Cham và Malay ngày nay.
Dựa vào phân tích trên chúng ta có thể thấy chính từ [kyau] này đã biến thành Kỳ-Co theo cách ghi đọc phiên âm lại từ [kyau] trong tiếng Cham theo đặc trưng giọng Miền Trung (đặc biệt vùng biển), để chỉ cho địa danh [luvuk kyau] mang hàm nghĩa là vùng đất có vũng (biển) lấp lánh như pha lê. Và ngày nay nó trở thành tên địa danh để chỉ cho vũng Kỳ-Co như hiện nay.
Bản đọc văn khắc C.47
(1) svasti / ni trā madā bṛṣu(2)vaṅṣa sidaḥ yāṅ pō ku śri jaya si(3)ṅhavarrnmadeva śri harijātti vīrasi(4)ṅha campapūra pu pō ku drãṅ rāja pari(5)pūṇṇa dvādaśa varśakā jīvaṅgatta nau śi(6)vasthāṇṇa di bhūma yaṅ.... klauṅ yaṅ (7) pō ku śri viṣṇu[jātti vī]ra bhadra(8)varmmadeva ātmaja nan dr[ã]ṅ rāja he(9)ttu pīta mātā mvāttuleya a(10)nniḥ praveśa di bhūmmi nī si upak su(11)ṇa kā tok humā si rājapita (12) pu pō ku parok di luvuk kyau / 50(13)0 vījaiḥ ṅan tandoṅ rayā / śvãn pirak sa (14) vauh 15 thil / kamandala pirak sa 5 (15) thil / kalauk pirak sa thil / klau(16)n pirak vireśa sa thil / hastiḥ sa (17) drei / hulun dvā drei aviḥ nī lumvaḥ śi(18)liḥ yauṃ śaśāṇṇa bhūmmi nī di śaka (19) nī 1323 //




2025/04/19

Văn khắc C.122 Phú Quí.

 Văn khắc C.122 Phú Quí.

Văn khắc được tìm thấy ở làng Phú Quí, Ninh Thuận. Được công bố đầu tiên bởi Cœdès (1912).
Văn khắc sử dụng tiếng Sanskrit và Cham cổ.
Bản đọc:
1) | di śakarāja 977 nan· kāla Im̃śvaramurtti si daḥ yām̃ po ku śrī parameśvaravarmmadeva santā-
(2) na Uroja ya cakravarttirāja di nagara campa nim̃ ra pratiṣṭhā yām̃ vihāra rājakula niy· mulaṅ·
(3) tra ra paralap· kalañ· ya ruṅ· nan· jeṅ· Avista bharuv· ra vuḥ Urām̃ maddan· lumvauv· kravāv· hu-
(4) mā ṅan· samasta Upakaraṇa tuy· devārccaṇa panūjā devatā nim̃ sadākāla nau ||
Phiên âm liền mạch để dễ phân tích:
di śaka-rāja 977 nan kāla īśvaramūrti si dah yāṅ po ku śrī parameśvaravarmadeva santāna uroja ya cakravartirāja di nagara campa niy. ra pratiṣṭhā yāṅ vihāra rājakula niy mulaṅ. tra ra pa-ralap kalañ ya ruṅ nan jeṅ avista bharuv. ra vuh urāṅ maddan lumvauv kravāv humā ṅan samasta upakaraṇa tuy deva-arcana p-an-ūjā devatā niy sadākāla nau||
Tạm dịch:
Vào năm Śaka 977, vào thời điểm đó, [vị vua có tôn hiệu là] Īśvaramūrti, chính là đức vua Po Ku Śrī Parameśvaravarmadeva, thuộc dòng Uroja, l[à] vị vua vũ trụ ở vùng đất Campā này, [rằng] ngài đã tái lập (tượng của) vị thần của tu viện này của hoàng gia. [Ngài cũng đã] tu bổ toà tháp bị bỏ hoang trở nên hoàn thiện mới mẻ hơn. [Ngài cũng đã] ban cho người hầu bếp, bò, trâu, cánh đồng cùng tất cả đồ dùng phục vụ việc thờ cúng thần linh, [và] cúng dường vị thần này mãi mãi về sau.
Chú giải:
- Śaka 977 tức năm 1055 Công Nguyên
- Īśvaramūrti: Hình ảnh của Thần Īśvara/Shiva
- Cakravartirāja: bậc chuyển luân vương, một tước hiệu thể hiện quyền lực tối cao.
- urāṅ maddan: người hầu/chăm sóc bếp núc nơi thờ tự.
** Trong văn bản này, chúng ta nhận thấy sự xuất hiện của hai dạng tiền tố, [pa-ralap] và [p-an-ūjā]. Tiền tố gây ra [pa-] và tiền tố công cụ [-an-] được biết đến rộng rãi trong toàn bộ ngữ hệ Chamic.
- pa-ralap = hoàn tất / hoàn thiện. Có gốc từ parilāp/para + lāpa gốc từ tiếng Phạn.
- p-an-ūjā = việc phụng sự / lễ bái. Có gốc từ pūjā, một từ mượn tiếng Phạn có nghĩa là 'thờ cúng'.



Văn hóa và ngôn ngữ của người Champa cổ đại được "vẽ lại" thông qua các hình thức sau:

 Văn hóa và ngôn ngữ của người Champa cổ đại được "vẽ lại" thông qua các hình thức sau:

*** Ngôn ngữ:
•Sự phát triển của tiếng Cham: Các nguồn đều nhấn mạnh sự phát triển đáng kể của tiếng Cham theo thời gian. Tiếng Cham cổ, được ghi lại trong các văn khắc, rất khác biệt so với tiếng Cham hiện đại. Một người Cham ngày nay chỉ có thể hiểu một số ít từ trong các văn khắc cổ. Điều này cho thấy một quá trình tiến hóa mạnh mẽ của ngôn ngữ Cham.
•Vai trò của tiếng Phạn và sự suy giảm của nó: Các văn khắc Cham cổ nhất được viết bằng tiếng Phạn. Tuy nhiên, từ thế kỷ thứ 9 trở đi, tiếng Phạn dần chia sẻ không gian ngôn ngữ với tiếng Cham. Đến thế kỷ 11, vai trò này dường như đảo ngược, với phần lớn nội dung quan trọng của văn khắc được thể hiện bằng tiếng Cham, trong khi tiếng Phạn chủ yếu xuất hiện ở phần mở đầu mang tính hình thức. Cuối cùng, việc sử dụng tiếng Phạn gần như biến mất. Sự thay đổi này có thể phản ánh sự suy giảm về trình độ của các học giả tiếng Phạn địa phương và sự trỗi dậy của tiếng Cham như một ngôn ngữ hành chính và văn hóa.
•Mối liên hệ giữa tiếng Cham và tiếng Mã Lai: Tiếng Cham có mối liên hệ chặt chẽ với tiếng Mã Lai, thể hiện qua nhiều từ vựng tương đồng (ví dụ: ikan ‘cá’, bulan ‘mặt trăng’, urang ‘con người’) và những tương ứng âm vị có hệ thống (ví dụ: matai/mati, marai/mari, kakai/kaki). Điều này gợi ý một nền tảng ngôn ngữ chung và giúp ích cho việc giải mã tiếng Cham cổ.
•Sự phân biệt trong việc sử dụng tiếng Cham và tiếng Phạn: Trong giai đoạn thế kỷ 9 đến 11, khi các văn khắc song ngữ phổ biến, tiếng Phạn thường được dùng khi đề cập đến những vấn đề mang tính vĩnh hằng (danh tiếng vua, quyền năng thần linh), còn tiếng Cham được dùng nhiều hơn cho nhu cầu cấp bách trong đời sống xã hội.
•Chỉ một hệ thống chữ viết: Mặc dù có hai ngôn ngữ được sử dụng (Phạn và Cham cổ), chỉ có một hệ thống chữ viết duy nhất, có nguồn gốc từ chữ Brāhmī của Ấn Độ, được dùng để viết cả hai ngôn ngữ này. Hệ thống chữ viết này sử dụng âm tiết (akṣara) làm đơn vị cơ bản.
•Những thách thức trong nghiên cứu văn khắc Cham: Việc đọc và dịch các văn khắc cổ gặp nhiều khó khăn do hệ thống chữ viết cổ không được chuẩn hóa, sự hư hại theo thời gian và những vấn đề trong việc diễn giải cả tiếng Phạn và tiếng Cham cổ. Nhiều văn khắc tiếng Cham vẫn chưa được dịch đầy đủ hoặc bản dịch không chính xác.
•Sự khác biệt giữa văn xuôi và văn vần: Tiếng Phạn trong các văn khắc thường được sử dụng dưới dạng thơ, trong khi tiếng Cham cổ luôn được viết ở thể văn xuôi.
*** Văn hóa:
•Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ: Việc sử dụng tiếng Phạn, hệ thống niên đại Śaka, và sự vay mượn từ vựng tiếng Phạn vào tiếng Cham cho thấy ảnh hưởng sâu sắc từ Ấn Độ. Việc sử dụng hệ thống chữ cái hoa (chronogram) có nguồn gốc từ tiếng Phạn, được bản địa hóa và sử dụng cả trong tiếng Cham, là một minh chứng cho sự tiếp thu và bản địa hóa các yếu tố văn hóa Ấn Độ.
•Tín ngưỡng tôn giáo: Hầu hết các văn khắc đều liên quan trực tiếp đến việc thờ phụng thần linh, cho thấy tôn giáo đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội Champa cổ. Các văn khắc cung cấp thông tin về các vị thần được thờ cúng (Śiva, Phật, Viṣṇu) và các phương tiện vật chất được sử dụng để phục vụ họ. Việc cúng dường đất đai và miễn giảm thuế cho các cơ sở tôn giáo (Śiva giáo và Phật giáo) được ghi lại chi tiết trong các văn khắc tiếng Cham, cung cấp thông tin về hệ thống sở hữu đất đai cổ xưa.
•Tổ chức xã hội và chính trị: Các văn khắc thường được ban hành bởi các nhà cầm quyền thế tục như vua, hoàng hậu và các đại thần. Chúng ghi lại tên của hoàng gia và giới quý tộc, các vấn đề chính trị, quan hệ với các nước láng giềng (Campuchia, Đại Việt) và các nước xa hơn, cũng như các cuộc chiến tranh và hòa bình.
•Hệ thống niên đại: Các văn khắc Cham sử dụng kỷ Śaka để ghi thời gian, bắt đầu từ tháng 4 năm 78 sau Công nguyên. Niên đại có thể được biểu thị bằng số hoặc bằng chữ cái hoa (chronogram).
•Văn khắc trên nhiều loại hiện vật: Chữ viết không chỉ được khắc trên các bia đá mà còn trên các yếu tố kiến trúc bằng đá và đất nung (cột cửa, diềm cửa, bệ tượng, mái vòm), thậm chí cả trên các đồ vật bằng kim loại quý hoặc gốm (dù không có mẫu vật nào như vậy tại Bảo tàng Điêu khắc Cham Đà Nẵng). Các ký hiệu nhỏ cũng được tìm thấy trên các khối đá để chỉ vị trí lắp ghép trong các công trình kiến trúc.
•Sự suy giảm trình độ tiếng Phạn: Các văn khắc tiếng Phạn sau này thường vụng về, sử dụng từ vựng đơn giản và mắc lỗi ngữ pháp, cho thấy sự suy giảm về trình độ và hiểu biết sâu sắc về tiếng Phạn theo thời gian. Hiện tượng “tuỳ ý” về chính tả tiếng Phạn cũng phổ biến hơn trong các văn khắc muộn.



Một số thay đổi ngôn ngữ và văn hóa theo thời gian thông qua các gợi ý về từ vựng và ngữ pháp trong tiếng Cham/Champa

 Một số thay đổi ngôn ngữ và văn hóa theo thời gian thông qua các gợi ý về từ vựng và ngữ pháp trong tiếng Cham/Champa

•Sự phát triển đáng kể của tiếng Cham theo thời gian:
Ngôn ngữ Cham cổ ('Old Cam') được sử dụng trong các văn khắc khác biệt lớn so với tiếng Cham hiện đại. Một người Cham hiện đại chỉ có thể hiểu một vài từ được ghi trên các văn khắc cổ, ngay cả khi hệ thống chữ viết cổ đã được chuyển sang dạng hiện đại. Điều này cho thấy một quá trình tiến hóa mạnh mẽ của ngôn ngữ giữa giai đoạn cổ xưa và hiện đại.
•Sự thống trị ban đầu của tiếng Phạn và sự suy giảm theo thời gian:
Các văn khắc Cham cổ nhất được viết bằng tiếng Phạn. Tuy nhiên, từ thế kỷ thứ 9 trở đi, tiếng Phạn dần chia sẻ không gian ngôn ngữ với tiếng Cham. Đến thế kỷ 11, vai trò dường như đảo ngược, với phần lớn nội dung quan trọng của văn khắc được thể hiện bằng tiếng Cham, trong khi tiếng Phạn chỉ còn xuất hiện ở phần mở đầu mang tính hình thức. Cuối cùng, việc sử dụng tiếng Phạn gần như biến mất. Sự thay đổi này có thể phản ánh sự suy giảm về khả năng chuyên môn của các học giả ngôn ngữ Phạn ở địa phương và sự trỗi dậy của tiếng Chăm như một ngôn ngữ hành chính và văn hóa.
•Mối liên hệ giữa tiếng Cham và tiếng Mã Lai:
Tiếng Cham có mối liên hệ chặt chẽ với tiếng Mã Lai, thể hiện qua nhiều từ vựng tương đồng và những tương ứng âm vị có hệ thống. Điều này gợi ý một nền tảng ngôn ngữ chung và có thể giúp các nhà nghiên cứu hiện đại trong việc giải mã tiếng Cham cổ khi đối chiếu với tiếng Cham hiện đại không đủ.
•Sự khác biệt trong việc sử dụng tiếng Cham và tiếng Phạn phản ánh tính chất nội dung:
Trong giai đoạn từ khoảng thế kỷ 9 đến 11, khi các văn khắc song ngữ trở nên phổ biến, có một gợi ý rằng tiếng Phạn thường được sử dụng khi đề cập đến những vấn đề mang tính vĩnh hằng (danh tiếng của vua, quyền năng thần linh), trong khi tiếng Cham được sử dụng nhiều hơn cho những nhu cầu cấp bách tức thời trong đời sống xã hội. Điều này cho thấy một sự phân biệt về chức năng giữa hai ngôn ngữ trong bối cảnh văn hóa và xã hội.
•Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ:
Việc sử dụng tiếng Phạn trong các văn khắc ban đầu, hệ thống niên đại Śaka, và sự vay mượn từ vựng tiếng Phạn vào tiếng Cham cho thấy một ảnh hưởng văn hóa sâu sắc từ Ấn Độ trong lịch sử Champa. Đặc biệt, sự kiện hệ thống chữ cái hoa (chronogram) vốn có nguồn gốc từ tiếng Phạn được sử dụng cả trong tiếng Cham (dù từ vựng vẫn là tiếng Phạn) là một minh chứng cho sự tiếp thu và bản địa hóa các yếu tố văn hóa Ấn Độ.
•Sự thay đổi trong trình độ sử dụng tiếng Phạn:
Các văn khắc tiếng Phạn sau này thường vụng về, sử dụng vốn từ vựng đơn giản và không tuân thủ các quy tắc ngữ pháp. Thêm vào đó, hiện tượng tự tung tự tác về chính tả tiếng Phạn trong các văn khắc muộn hơn so với các văn khắc trước đó cho thấy có thể có sự suy giảm về trình độ và sự hiểu biết sâu sắc về tiếng Phạn theo thời gian.

Tóm lại, những thay đổi về vựng và ngữ pháp trong các văn khắc Champa theo thời gian gợi ý một quá trình phát triển ngôn ngữ nội tại của tiếng Cham, sự chuyển đổi về vai trò và tầm quan trọng giữa tiếng Phạn và tiếng Cham, mối liên hệ ngôn ngữ và văn hóa với các khu vực lân cận (như Mã Lai), và những thay đổi trong ảnh hưởng và trình độ sử dụng các ngôn ngữ ngoại lai (như tiếng Phạn), tất cả đều phản ánh những biến đổi văn hóa và xã hội sâu sắc trong lịch sử Champa.





Văn khắc (C.239!), Ayun Pa, Gia Lai.

 Văn khắc (C.239!), Ayun Pa, Gia Lai.

(1) Yē dharmmā hetu prathavā tēṣāṁ
(2) Hētuṁ Tathāgato hy avadat tēṣāṁ
(3) ca yo nirodhoḥ Evaṁ
(4) vādī Mahāśramaṇaḥ
(5)…
Riêng dòng thứ 5 đã bị mờ và còn lại vài nét chữ, không đọc được.
Bản đọc lại:
(1) Ye dharmā hetu-prabhavāḥ
(2) Hetuṁ teṣāṁ tathāgato hy avadat
(3) Teṣāṁ ca yo nirodhaḥ
(4) Evaṁ vādī mahāśramaṇaḥ
(5) (Bhūtaṁ jñātvā śramaṇaḥ)
Dòng thứ (5) là một giả định được đưa ra khi tham khảo các văn khắc có nội dung câu kệ tương tự ở khu vực ĐNA
Đây là Văn khắc được phát hiện ở Ayun Pa, Gia Lai, hiện vật đang được trưng bày tại bảo tàng GiaLai.
Nội dung văn khắc là một câu kệ Pháp Duyên Khởi (Ye Dharma Hetu) nổi tiếng trong Phật giáo, xuất hiện trong nhiều bia ký cổ, đặc biệt là trong văn khắc Sanskrit ở Ấn Độ, Champa, Khmer và các khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi văn hóa Phật giáo Đại thừa hoặc Tiểu thừa.
Dịch nghĩa câu kệ:
(1) Ye dharmā hetu-prabhavāḥ
→ Các pháp sinh ra từ nhân duyên
(2) Hetuṁ teṣāṁ tathāgato hy avadat
→ Nhân duyên ấy do đức Thế Tôn (Tathāgata) dạy
(3) Teṣāṁ ca yo nirodhaḥ
→ Sự diệt tận của chúng cũng vậy
(4) Evaṁ vādī mahāśramaṇaḥ
→ Đức Đại Sa-môn (Đức Phật) đã dạy như thế
(5) (Bhūtaṁ jñātvā śramaṇaḥ)
→ (Bậc Sa-môn hiểu rõ chân lý và thực hành nó).



2024/08/01

Về nội dung Mảnh vỡ văn khắc Champa khai quật ở Di tích Đại Hữu Bình Định

 Về nội dung Mảnh vỡ văn khắc Champa khai quật ở Di tích Đại Hữu Bình Định



Ghi chú về quy ước đọc:

--- : là nội dung minh văn không đọc được do văn khắc đã bị hư hại, bị mờ.

• : là dấu Virāma, thanh ngang đặt trên đầu kí tự của phụ âm kết.

[…]: Nội dung đặt trong dấu [ ], thể hiện lối đọc giả định, hay nội dung phục hồi.

(…): Nội dung đặt trong dấu ( ), là kí tự không đọc được do văn khắc đã bị hư hại, bị mờ.

 

Nội dung tạm đọc:

--- ---

--- po ku rā[--]

[--vra]puṣpa pha---

--- ---

Nội dung đọc giả định phục hồi.

--- ---

--- po ku rājā ---

---udumvrapuṣpa-phalaṅ

---

Chú giải: Dựa vào cụm “po ku rā[--]“ chúng ta có thể đoán định được cụm từ này có thể là “po ku rājā” ám chỉ về một vị vua hay thần chủ,…; với cụm “[--vra]puṣpa pha---

“, chúng ta có thể tạm phục hồi từ này có thể là “udumvrapuṣpa-phalaṅ”, đây là cụm từ để nói đến loài hoa/quả Ưu đàm, là một cây thiêng được nhắc nhiều trong nhiều kinh văn Ấn giáo và Phật giáo, đây chính là cây Sung thiêng biểu thị cho sự Sinh tạo.


2024/04/01

vṛścikalagna

 -vṛścikalagna (Cung Bọ Cạp), được ghi trong bi kí Champa C.75

-vṛścikasana (một động tác bọ cạp trong yoga)
-Trên tượng đá trong điêu khắc Champa


2024/03/30

Kiến trúc nhà ở truyền thống người Cham / Palei-Hình thái cư trú của người Cham miền duyên hải.

 Palei-Hình thái cư trú của người Cham miền duyên hải.

Đơn vị Palei (Làng) là mô hình cư trú truyền thống của người Cham. Mô hình tổ chức xã hội truyền thống này chịu tác động bởi yếu tố về địa lí, môi trường ở, các tập quán sinh hoạt văn hóa, luật tục, kinh tế, kết nối cộng đồng,..mà thành. Từ đó nó tạo nên một đặc điểm nhận dạng cho một mô hình cư trú Palei đăc trưng.
Cộng đồng Cham có mối liên kết cộng đồng cao, có thể nhìn vào mối quan hệ tộc họ (gep/gep gan), mối liên kết thân thuộc này không những ở tộc họ mẹ (mẫu hệ, bên nội) mà còn lan ra cả tộc họ bên cha (bên ngoại). Chính vì thế mô hình Palei cộng cư này tập trung/co cụm theo cụm tộc họ với nhau để hình thành, phát triển thành một đơn vị palei.
Để tạo nên nét đặc trưng về hình thái ở này, cộng đồng đã hình thành nên những nguyên tắc “quy hoạch” riêng.
Việc chọn nơi để lập thành Palei cần tuân theo quy tắc/luật “phong thủy”: “Cek maraong, kraong barak; glaong di pai, biér di pur; aia nduec gah ésan.” (núi đằng nam, sông đằng bắc; cao phía tây, thấp phía đông; nước chảy về hướng đông-bắc.). Palei phải là nơi cao ráo, không ngập nước, và hội đủ điều kiện trên là một nơi phù hợp để lập nên thành khu ở. Xung quanh palei là những cánh đồng bao quanh,…
Sau khi chọn được một khu đất phù hợp để lập palei, thì đến việc quy hoạch tuyến trục chính của palei là hết sức quan trọng, việc lập tuyến trục này dưa trên quy tắc (phân chia 2 trục chính đông-nam, tây-bắc). Với quan điểm quy hoạch, trục đông-tây là trục/lối đi của thần linh, trục nam- bắc là trục/lối đi của trần gian, với hướng nam là hướng sinh/hướng mở; hướng bắc là hướng tử/hướng đóng. Như vậy, chúng ta đã xác định được hai trục chính phân chia không gian palei, với cổng chính của làng đặt ở hướng sinh/hướng mở ở phía nam, cổng phụ của làng đặt ở phía bắc.
Tập quán sinh hoạt của người Cham sống tụ cư với nhau theo tộc họ theo từng cụm khu ở với nhau, mỗi palei là những cụm khu ở, mỗi khuôn viên ở (đơn vị nhà) riêng rẻ được giới hạn bằng paga (rào) được bố trí nối nhau liên tiếp theo trục bắc-nam gọi là talei paga, và thường là chị em cùng dòng tộc sống cạnh liền kề nhau trên dãy talei paga đó. Mỗi khuôn viên ở bao gồm từ 1 đến 7 đơn vị nhà, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, quy mô của một gia đình mẫu hệ bên trong. Cổng chính của mỗi khuôn viên luôn được mở ở góc phần tư của hướng nam,tay-nam, kết nối với giao thông bên ngoài với tuyến đường talei paga.
Mỗi dãy talei paga này cách nhau lối hai xe trâu tránh nhau, và xuyên suốt từ đầu đến cuối làng. Cách khoảng 5 khuôn viên ở lại mở lối đi ngang (đông-tây) để nối thông với tuyến trục talei paga.
Cứ như thế việc bố trí này được tuân theo chặt ché và mở rộng bám vào hai trục chính đông-tây, bấc-nam của palei.
Các không gian công cộng, sinh hoạt tôn giáo của palei cũng được lựa chọn vị trí phù hợp. Ví dụ như Sang palei (nhà làng) luôn được đặt đầu Palei để tiện quan sát, sinh hoạt; Sang Po-yang đền thờ thần đặt ở cuối làng, nghĩa trang làng, Kut của mỗi tộc họ được bố trí bên rìa làng, cách làng không xa.
Ngày nay, mô hình palei có những thay đổi/biến đổi, bởi quy mô mở rộng và các nguyên tắc quy hoạch xưa dần “yếu” thế hơn so với con người bây giờ. Nhưng có thể nói rằng hình thái cư trú Palei xưa là một đại diện để nói lên phép quy hoạch của người xưa, phù hợp với tập quán, điều kiện môi sinh tự nhiên, và văn hóa của người xưa.
P/s: Trong ảnh đính kèm là tấm ảnh chụp làng Cakaing xưa (tức làng dệt thổ cẩm Mỹ nghiệp). Nhìn vào bức hình có thể thấy lối tổ chức không gian một cách trật tự, và tuân theo luật "phong thủy", với sông bao bọc ở phía bắc, hưởng chảy từ tây, tay-bắc, cổng chỉnh của làng mở hướng nam, không gian bố trí dãy khuôn viên bám theo trục bắc-nam tạo nên một mô hình trật tự.








Kiến trúc nhà ở truyền thống người Cham - Nhà có cổng hướng nam.

 Nhà có cổng hướng nam.

Như ''Nhà có hàng rào thưa'' như thể đã xác xác định ranh khuôn viên ngôi nhà rồi thì, cái cổng chính của khuôn viên ngôi nhà ''luôn luôn'' đặt ở hướng nam, nằm ở phần góc tây nam của khuôn viên ngôi nhà. Ấy là hướng mở của cuộc đất mà ta sinh sống. Và nếu ta nhìn trên tổng mặt bằng bố trí các đơn vị nhà có hướng mở về phía nam, che chắn phía bắc bớt đi.
Về việc bố trí hướng mở và cái cổng này thể hiện được kinh nghiệm của cha ông ta với thời tiết khí hậu địa phương (phong-thủy) vừa để hút được khí/gió lành vào nhà từ phía nam và che chắn bớt một phần gió bấc lạnh. Còn là để ''hút của cải vào nhà'', tất nhiên là hút vào cái kho chứa đựng của cải đang ngự ở gian bắc,đông-bắc.
Về việc mở cánh cổng ở hướng nam khuôn viên này nó còn có những nguyên nhân/quan điểm về nhân sinh quan của con người với tự nhiên (đất-trời), người Cham quan niệm rằng lối mở trục đông-tây là lối đi của thần/yang, nam-bắc là lối của người phàm, vì thế vị trí cánh cổng mở hướng nam cũng như đặt đúng trục của người phàm mà không phạm vào trục của thần/yang. Và cũng là hướng Sinh.
Lối cổng vào khuôn viên thụt lùi sâu vào trong một khoảng, lối đi hai người tránh nhau. Cánh cổng không được mở trực diện với lối cửa nhà, rõ ràng nó chứa đựng sự ý nhị giao tiếp giữa bên ngoài/bên trong với nhau. Lối mở không trực diện với lối cửa đi này cũng là để tránh ''rơi vào miệng trăn'', bởi cổng khuôn viên cũng được xem như cái miệng con trăn ''pabah klan'', ''tránh rơi vào miệng trăn'' cũng là lối ứng xử ý nhị với tự nhiên, là để tránh bớt những tai ương không mong muốn.
Khách đến nhà, trên lối dẫn đến cửa cổng kịp đứng lại, tằng hắng báo hiệu cho gia chủ bên trong đủ nghe mà tươm tất lại, hay khách cũng đủ thời gian quan sát trước khi quyết định bước vào trong khuôn viên tùy vào ''hoàn cảnh tế nhị'' đang diễn ra trong khuôn viên gia chủ. Bên hông cánh cổng ấy luôn để một lu nước mát, vừa để uống, vừa để gột rửa phiền toái ra khỏi người để ta lẫn khách vào nhà với tâm thế mát/sạch nhất. Cái lối hành xử ấy sao đẹp thế.
Ngày nay, lối cổng có khác đi nhiều bởi nhu cầu sử dụng, hay cái quan điểm của cha ông không còn được gìn giữ với lớp trẻ ngày nay. Cái kinh nghiệm ứng xử với tự nhiên, và con người đã dần mất đi rồi.


Kiến trúc nhà ở truyền thống người Cham - Nhà có Rào thưa.

 Nhà có Rào thưa.

Hàng rào như một ranh giới phân chia không gian (khuôn viên) nhà với nhau. Các khuôn viên nhà ấy được hình thành theo trục Bắc-Nam, tạo thành dãy khuôn viên, mỗi dãy khuôn viên cách nhau lối 2 xe trâu có thể tránh nhau thoải mái.
Thông thường, dãy khuôn viên đất theo trục bắc-nam ấy là đất rẫy (apuh) của chị em trong cùng dòng tộc, và như thế mô hình khuôn viên nhà theo trục bắc-nam ấy là một mô hình "liên kết theo dòng tộc". Bởi thế, mỗi khuôn viên hình thành nên ranh giới mang tính ước lệ bằng những hàng rào thưa, vừa đảm bảo tính an toàn về mặt che chắn, nhưng không ngăn cách mối kết nối dòng tộc, gia đình.
Hàng rào thưa thuở ấy thường được làm bằng tre, bằng lăng, và cả hàng rào cây xương rồng,...nó đảm bảo về mặt thông thoáng tự nhiên, vừa đủ ngăn bớt gió bụi mà không tách mình khỏi cộng đồng.
Ngày nay, chúng ta thấy đủ loại kiểu hàng rào với các nguyên vật liệu kiên cố hơn, nhưng rõ là "thiếu đi cái hồn, thiếu đi tính kết nối".
Từ cái nét hàng rào thôi, chúng ta cũng có thể nhìn thấy cả tâm hồn của gia chủ bên trong, sự thân thiện, hoà đồng, cởi mở đầy ý tứ với tự nhiên, với cộng đồng cũng được khắc nét vào cái lối hàng rào ấy.
P/s: Ảnh do tác giả Nguyễn Văn Kự chụp tại làng Cham Bàu Trúc.





Kiến trúc nhà ở truyền thống người Cham - Nhà có Sân

 Nhà có Sân

Cái Sân là khoảng không gian bằng phẳng trước mặt của những căn nhà. Cái Sân được hình thành nên từ sự phân chia bố cục không gian ước định với các không gian kiến trúc khác. Người Cham gọi là "mblang sang"-sân nhà.
Là khoảng không gian công cộng phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt diễn ra tại khuôn viên nhà, là nút giao thông chính, là không gian đối lưu khí trước những căn nhà.
Một khoảng lùi vừa đủ mang lại sự gắn kết hài hoà giữa các không gian kiến trúc.
Sân, có thể được lát bằng gạch, hay chỉ là cái sân đất đầm chặt. Và nhờ đó, cái lợi thế của nó là làm giảm đi/hấp thụ bức xạ mặt trời chiếu vào khoảng sân ấy, cho ngôi nhà bớt nóng hơn, lợi thế này hơn hẳn cái sân bê-tông như ngày nay.
Ở các vùng quê miền trung, gắn liền với canh tác nông nghiệp, cái sân càng phát huy sự hữu ích của nó, là nơi để phơi sàng lúa thóc và các sản phẩm nông nghiệp sau khi thu hoạch,…
Cái Sân trở thành không gian gắn kết thành viên gia đình với nhau, với không gian và thời gian mà con người hoà mình vào trong nó, ở đó, nó đóng góp để tạo nên các lớp kỉ niệm/kí ức mà một không gian kiến trúc mang lại. Vừa là điểm kết nối bên trong lẫn bên ngoài.
Cái Sân không chỉ đóng góp về mặt giải pháp kiến trúc, hay đơn giản chỉ là một công năng kiến trúc cần có, mà nó vượt thoát để tạo nên một giá trị biểu tượng của văn hoá gia đình, cộng đồng.
Ngày nay, với sự thay đổi chóng mặt, cái Sân dần thay đổi cả về mặt không gian chức năng và kích thước, một vài trường hợp kiến trúc nhà ở đã mất đi hẳn cái Sân ấy. Nhưng, "Nhà có Sân" là điều cần thiết, và nên được ưu tiên với quy mô và hình thái phù hợp hơn để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt lẫn xây dựng không gian văn hoá của một gia đình.
P/s: Cái Sân trong không gian kiến trúc của người Cham có những điểm tô khác, là không gian chứng kiến những sinh hoạt đời thường lẫn các nghi lễ cuộc người trên khoảng sân ấy, là không gian kết nối giữa gia đình và cộng đồng, xoá nhoà hiềm khích cá nhân để gắn kết với tộc họ, với cộng đồng. Vì thế cái Sân luôn cần phải rộng.
Cái Sân còn chính là văn hoá, văn hoá của tộc họ, của cộng đồng Cham, với những nghi lễ cuộc người diễn ra quanh năm.



Kiến trúc nhà ở truyền thống người Cham - Hãy để "Nhà có hiên"

 Hãy để "Nhà có hiên"

Ngoài việc để cho "Sàn hở và Mái thở" thì, ông cha ta còn dùng giải pháp mở mái hiên (hè nhà), người Cham gọi là "Craok Cac". Có thể thấy mái hiên này được mở ra các mặt của căn nhà, đặc biệt là ở mặt chính (các mặt chính của các căn nhà hướng về cái sân chung ở trung tâm).
Ở phần mái hiên được mở rộng ra thêm, ở đó được cấy thêm hàng thanh lam đứng, người Cham gọi là Gai Jeng (Talei hayua)/chấn song.
Với giải pháp mở mái hiên cùng dãy thanh lam đứng này đã trở thành một không gian đệm, tăng thêm về công năng sử dụng, làm giảm đi bức xạ mặt trời chiếu trực tiếp vào bề mặt tường nhà, giảm bớt luồng gió xộc thẳng vào nhà. Đồng thời tăng thêm tính thẩm mỹ kiến trúc lẫn tâm lí sinh hoạt.
Đây cũng là điểm nhận diện, giải pháp cho chúng ta học tập trong căn Nhà ở xứ Miền Trung mà ông cha ta để lại.





Nhà ở truyền thống người Cham - Hãy để cho "Sàn hở và Mái thở"

 Hãy để cho "Sàn hở và Mái thở"

Với đặc điểm khí hậu khá khắc nghiệt xứ Miền Trung, đặc biệt vào mùa khô, nhiệt độ tăng cao, độ ẩm giảm xuống thấp, gây cảm giác khó chịu khô hanh. Vào mùa mưa, một số nơi độ ẩm tăng cao, ẩm ướt,…
Bằng kinh nghiệm, ông cha ta đã làm nên cái Nhà tiện nghi nhất, và nó đã trở thành điểm đặc trưng, nhận diện cho cái Nhà ấy. Đến nay, các giải pháp kiến trúc ấy vẫn còn nguyên giá trị về mặt giải pháp kiến trúc cho kiểu nhà Miền Trung. Và một trong những giải pháp chính ấy là “Để cho Sàn hở-Mái thở”.
* Sàn hở: Sàn cách mặt đất từ 30-50cm. Tạo một khoảng hở với mặt đất nhằm cách ẩm với mặt đất, lợi dụng luồn gió đối lưu tự nhiên để thổi, thoát khí nóng, ẩm từ mặt đất dưới sàn nhà lên.
* Mái thở: Là giải pháp thoát khí nóng dưới hầm mái bị hun nóng bởi sức nóng mặt trời trong ngày bằng đối lưu khí tự nhiên. Hệ hai lớp mái, đồng thời đã tạo nên một lớp đệm không khí cách nhiệt, giảm bức xạ mặt trời chiếu trực tiếp từ lớp mái trên vào nhà. Khe chân mái (mái trên-mái dưới), đóng vai trò như một khe thoát khí nóng hầm mái bằng gió tự nhiên nhanh nhất,…
Với 2 giải pháp kể trên, chúng ta có thể ứng dụng để chống nóng cho nhà Miền Trung.
*P/s: Kiến thức của Ông cha để lại vẫn còn nguyên giá trị, chúng ta hãy vô tư “copy và paste”, “chia sẻ và ứng dụng”, hay đơn giản là “Trọc phú kiến thức” cũng được, miễn không sáo rỗng, không ra vẻ đạo mạo là okei thôi ha.






Cần nhìn lại về một chi tiết kiến trúc Champa.

 Cần nhìn lại về một chi tiết kiến trúc Champa.

Đó là chi tiết kiến trúc được trưng bày trong Bảo tàng điêu khắc Chàm Đà Nẵng, phần cấu kiện kiến trúc này được chú thích "Bao Lơn".
Thông tin hiện vật:
Hiện vật được phát hiện tại thành Chà Bàn (Bình Định)
Niên đại khoảng TK12-13
Kích thước: 150x35.5x38 (cm), Lỗ tròn D=2.5cm
Hiện vật nằm lọt thỏm trong góc, thuộc phòng Bình Định-Kontum. Có lẽ đây là hiện vật có ít thông tin nhất cho đến hiện nay.
Đây là hiện vật bằng đá, dạng thanh dài, vuốt cong nhẹ ở hai đầu, thân có chạm hoa văn, đáy có rãnh, chính giữa đỉnh sóng co một lỗ âm.
Qua quan sát, chúng tôi có đưa ra vài gợi ý nhằm xác định lại cấu tạo-chức năng chi tiết kiến trúc với hiện vật này.
- Đây là chi tiết kiến trúc Bờ Nóc (mái) thuộc về một công trình Kiến trúc Đền, hay của tháp tiền điện/tiền sảnh của Kalan chính.
- Hai đầu Bờ Nóc (mái) và khe rãnh âm dưới đáy có tác dụng như một ngàm khoá/cố định thành phần kiến trúc này vào hệ thống kết cấu đỡ mái (xem hình vẽ mô tả)
- Lỗ âm vị trí giữa thanh, trên sóng đỉnh Bờ nóc (mái) có tác dụng để gắn một chi tiết hoa văn kiến trúc.
- Chi tiết Bờ nóc (mái) này, chúng ta thường bắt gặp hình thái kiến trúc này trong kiểu kiến trúc Đền thờ Champa.


All react