Pics

Pics
Hiển thị các bài đăng có nhãn bản đồ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bản đồ. Hiển thị tất cả bài đăng

2024/03/30

Hamu Craok (Bàu Trúc)

 Hiện nay, các làng nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một và thất truyền. Vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề gốm truyền thống Hamu Craok (Bàu Trúc) cũng là đáng quan tâm với hiện trạng tốc độ phát triển hiện nay.

Trong đó, một trong những bài toán then chốt là quy hoạch và bảo tồn được vùng nguyên liệu đất sét, thứ chất liệu để nuôi hồn gốm Cham Hamu Craok (Bàu Trúc). Vùng nguyên liệu sét thô này được khai thác ở cánh đồng dọc bờ Sông Quao (vốn có tên là kraong Kruec, sông cây quýt rừng), phù sa chứa hàm lượng sét cao được bồi đắp hằng năm để tạo nên vùng nguyên liệu này.
Gốm Cham Bàu Trúc sẽ biến mất nếu không quy hoạch được vùng nguyên liệu Sét này, và để bảo tồn được vùng nguyên liệu này, chúng ta cần cái nhìn xa hơn là phải quy hoạch bảo vệ vùng nguyên liệu đầu nguồn, cái con đường mà thứ phù sa sét này trôi theo dòng nước mỗi mùa mưa về hạ nguồn sông Quao.
Các phụ lưu của con sông Lanh Ra, mang theo phù sa sét từ các dãy núi (núi Lanh ra, Da Ó,...) nhập vào tạo thành dòng Lanh Ra, dòng này đi về phía hạ lưu qua khu rừng có nhiều cây Quýt rừng (Kruec glai) nên có tên Kraong Kruec (đây chính là dòng sông Quao).
Sông Lanh-Ra chính là kraong Halan-raya (Sông "đất" sét). Cái tên hàm chứa nguồn của nguyên liệu gốm Cham Hamu Craok.










"Phun Kem" (cây Mã tiền, cây củ chi)

 Xa xa kia chính là vũng Nại (sri binây, Ninh thuận). Đứng trên đỉnh đèo núi Ô-Căm, nơi có đập Ô-Căm có thể nhìn thấy rõ cửa ngõ Bal Huh (Cổ Hủ).

Núi Ô-Căm, có đập Ô-Căm do người dân dùng đá, gỗ đắp thành để dẫn nước vào cánh đồng lúa trong thung lũng nhỏ từ thuở xưa. Cái tên núi, tên đập Ô-Căm được phiên âm lại theo tiếng địa phương, dựa trên đặc điểm địa danh có loài cây "Phun Kem" (cây Mã tiền, cây củ chi).




2022/01/22

Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV-bản đồ số XI


Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV-bản đồ số XI

Nam giới sơn (南 界山)

Trong tờ bản đồ số XI (địa phận tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) của Dumoutier “Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV”, có chép về dãy núi Nam giới sơn (南 界山) ở huyện Thiên Lộc (207, 天禄 縣), Nam giới Sơn này chính là mốc ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Dãy núi này được người Việt gọi là Bộc Bố, tức như dải lụa dài. Nơi thường làm mốc chia ranh giới giữa hai nước.

Dãy núi này kéo dài từ tây-bắc đến đông-nam đến sát biển, nằm phía nam cửa Hội Thống (223, 會統 門), tức cửa Hẹn, và phía bắc của cửa Luật (224, 律門), nhưng thực ra đây chính là cửa Sót/Suốt (224, 率門).

Khu vực Nghệ An - Hà Tĩnh là đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích nhiều nhân tài, có thể đến như Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), là khu vực xảy ra những trận chiến mang tính điểm mốc lịch sử.




Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV-bản đồ số XXI

Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV-bản đồ số XXI

Tại bản đồ số XXI (địa phận tỉnh Bình Định ngày nay), trong cuốn “Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV” của Dumoutier, cho chúng ta một vài thông tin hiện trạng về Đồ Bàn thành, sau khi vua Lê vào khu vực Vijaya này.

Trong ghi chép của Dumoutier, ông mô tả phế tích (575, Đồ Bàn thành - 闍槃城 ) nằm cạnh bờ sông Phú Đa, thành có dạng hình vuông, có 4 cửa, mỗi cạnh khoảng 3 li. Bên trong thành là những phế tích của đền, tháp. Chú thích bên trong thành có (573, Tháp Con Gái - 㙮𡥵𡛔), có lẽ đây là phế tích của tháp Cánh Tiên. Và (574, Thập nhị tòa - 十二 座) là tòa tháp 12 tầng còn nguyên vẹn, sau này chúng ta không còn biết về tòa tháp 12 tầng trong thành Đồ Bàn này.
Phía bắc, ngoại thành là một (572, Cây cờ - 核旗), là một dạng Kỳ Đài để báo hiệu.
Như vậy, với ghi chép này cho chúng ta biết sự xuất hiện của một thể loại kiến trúc "Bảo tháp 12 tầng" trong quy hoạch kiến trúc nội thành của Vijaya (Champa).




Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV - bản đồ số XIX

Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV - bản đồ số XIX

Trong cuốn “Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV” của Dumoutier. Tại bản đồ số XIX (địa phận tỉnh Quảng Ngãi ngày nay, cho chúng ta một vài thông tin thú vị sau đây.

Về các dãy núi phía tây tỉnh Quảng Ngãi vốn là các mỏ khoáng vật (kim loại) như mỏ quặng vàng, hay mỏ quặng sắt. Các quặng khoáng vật này bị rửa trôi theo các dòng sông xuống hạ lưu, đây là lí do mà các đồng bằng hạ lưu của Quảng Ngãi chứa nhiều khoáng vật (kim loại) này lẫn trong đất, sét. Các lò gạch xưa, vì thế, trong thành phần gạch xưa luôn có hàm lượng khoáng kim loại nhất định. Cũng vì lợi thế này đã hình thành nên các lò rèn sắt (539, 爐鉄舘 - Lò Sắt Quán) hay (527, 金山, Kim Sơn), các địa danh được chú tròng tập bản đồ trên.
Về mặt phía đông, vùng biển thuộc tỉnh Quảng Ngãi, có một bãi cát nổi, rộng lớn được biết với tên (550, 𡌣葛鐄 - Bãi Cát Vàng), tức quần đảo San Hô (Hoàng Sa), nơi có nhiều bãi san hô và rùa biển. Trong bãi cát vàng này có một địa danh (550, 油藹山 - Du Ái Sơn), ngọn núi đá này còn biết với tên Du Trường Sơn (油塲山), tại đây người "Nam Việt" ngày xưa đã hình thành một trung tâm sản xuất Dầu. Quần đảo này còn có tên gọi là đảo Đại Chiêm (quần đảo của Chiêm thành).