Pics

Pics

2017/04/12

NHÀ TRUYỀN THỐNG NGƯỜI CHĂM - ( Jaya Thiên )

NHÀ TRUYỀN THỐNG NGƯỜI CHĂM
BƯỚC ĐẦU TIẾP CẬN
Jaya Thiên


A / DẪN NHẬP:

            Với tốc độ phát triển - thay đổi chóng mặt của Xã hội, sự lên ngôi của thời đại công nghệ số đã dung nhập không biết bao nhiêu mặt có lợi, nhưng nó cũng dẫn đến tình trạng suy thoái hay " thất truyền " bởi sự dung nhập ồ ạt và thiếu nền tảng - giá trị truyền thống nếu ta không có ý thức gìn giữ.
Tình trạng chung đó đã - đang ngày càng đánh mất đi cái cốt lõi nền tảng văn hóa - đánh giá thấp giá trị truyền thống để đi đến sự sáng tạo mới trong thời đại mới. Sáng tạo đúng nghĩa chỉ dựa trên nồng cốt -nền tảng được chất lọc từ tinh hoa văn hóa của cha ông.
Hằng ngày có biết bao giá trị văn hóa cổ xưa đang mất dần. Và " Thuật phong thủy Chăm " hay " Nhà Truyền thống Người Chăm " cũng không thoát khỏi tình trạng chung đó.
            Với mong muốn khơi mở đặt câu hỏi tiếp cận tìm hiểu nhằm " khôi phục " hay chí ít có thể ứng dụng những nguyên lí nền tảng - giải pháp kiến trúc cho sự sáng tạo phù hợp với sự thay đổi của Xã hội thông qua việc mổ xẻ, tiếp cận với giá trị tinh hoa truyền thống cụ thể ở đây là " Khuôn viên nhà Truyền thống Người Chăm ".

B/ ĐẶC ĐIỂM CƯ TRÚ:
            Với đặc điểm khí hậu khắc nghiệt, nên Ông bà Chăm xưa đã có cách thích ứng, hòa hợp với điều kiện khắc nghiệt.Trong đó phải kể đến và quan trọng nhất đó là " Khuôn viên ở " của người Chăm. Với một bố cục không gian theo " Phong Thủy Chăm "  kết hợp giải pháp kiến trúc tối ưu với đặc điểm khí hậu địa phương.
Với một tiền đề và cũng là kim chỉ nam để hình thành nên một nét riêng/cá biệt cho lối tổ chức không gian ở của cư dân Chăm xưa là : " Môi trường ở sinh ra kiến trúc thích ứng ".
            Mối liên hệ nào giữa hai yếu tố Vũ trụ quan và nhân sinh quan trong khuôn viên nhà truyền thống người Chăm?
    Về đấng tạo hóa: Người Chăm với chế độ mẫu hệ luôn coi mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar là đấng tạo hóa ra vũ trụ và sự sống của muôn loài (khác với kinh Vê đa, một tôn giáo phụ quyền, Brahma là thần sáng tạo tối cao). Và, với quan niệm lưỡng hợp âm - dương (yin - yang), bên cạnh thần mẹ xứ sở (âm) có thần Yang Pô, Yang Amư (thần trời, thần cha - dương) cũng được coi là đấng tạo hóa, Pô Păn là thần cai quản các thần, trông coi công việc thiên giới. Những đấng tạo hóa này sinh ra ba tầng vũ trụ: thiên - địa - nhân. Quan niệm về ba tầng vũ trụ của người Chăm rất rõ ràng, thể hiện nhiều ở trong bùa chú, trong các nghi lễ dân gian, nghi lễ tôn giáo và cả trong những lễ vật dâng cúng: 3 trái trứng, 3 miếng trầu têm, 3 chén rượu, 3 vạch vôi, hình tam giác 3 cạnh, 3 bếp, nằm lạy 3 lần, tang lễ 3 ngày v.v…

- Quan niệm âm - dương lưỡng hợp: thể hiện rõ trong đời sống tín ngưỡng người Chăm, thể hiện từ màu sắc sáng tối cho đến hình dạng của từng vật thể nhỏ nhất.

    - Về phương hướng: Người Chăm rất chú trọng về phương hướng và cũng tuân thủ quan niệm âm - dương. Người Chăm quan niệm hướng đông là hướng mặt trời mọc, là hướng của sự sống (dương), Và hướng Nam là hướng sinh. Vì vậy, gần như tất cả các tháp Chăm cũng như khuôn viên nhà cổ truyền đều có cổng hướng về phía đông, hoặc mở cửa về hướng  nam. Ngược lại, hướng tây là hướng “chết” (âm).

Như ta đã thấy, thông thường nhà truyền thống người Chăm có từ 3,5,7 đơn vị nhà ứng với quy mô và điều kiện cho phép. Những con số có liên hệ đến yếu tố Vũ trụ quan trong quan niệm của người Chăm.
            Con số 3 tượng trưng cho 3 cõi thiên - địa - nhân trong vũ trụ.
            Người Chăm quan niệm con số 5 là tượng trưng cho 5 vị thần linh trong cơ thể con người: 1 đầu, 2 vai và 2 chân. Có nhiều ý kiến cho rằng con số 5 của người Chăm có thể chịu ảnh hưởng quan niệm “ngũ hành, ngũ phương” của Trung Quốc. Có lẽ, quan niệm về con số 5, được người Chăm Ninh Thuận coi là con số của người Chăm Bàlamôn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bàlamôn? Trong “Tha áo nghĩa thư” có viết về Brahma: “Người là Phạn thiên, Nhân đà la, sinh chủ và tất thảy các thần, người là Địa - Thủy - Phong - Hỏa - Không . Đó là Ngũ đại; người là mọi nguyên tố hỗn hợp…” Ta cũng cần nói đến yếu tố sinh ra thuật ngữ phong thủy ngày nay, mà những tư liệu, hay những bài viết về nó vẫn còn là sự tranh cãi, mập mờ mà chưa thể đi vào một hệ thống, lập luận chung nào.
Trên trời có 5 tầng, con số 5 thuộc dương (trời thuộc dương), dưới đất có 2 tầng (con số 2 thuộc âm, đất thuộc âm).

Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.
           

            Tương quan giữa tứ đại trong vũ trụ và trong con người:
            Đất, nước, không khí, lửa (Địa - Thủy - Phong - Hỏa)  trong vũ trụ tạo ra một tổng hợp gọi là môi trường thiên nhiên với các vùng đất và khí hậu hàn đới, vùng đất và khí hậu ôn đới, vùng đất và khí hậu nhiệt đới, vùng đất và khí hậu xích đới v.v… Nhưng cái môi trường địa lí thiên nhiên (physical geography) cũng tác động lên môi trường địa lí nhân văn (human geography) vì con người phải thích nghi với thiên nhiên để sinh tồn hoặc phải tranh đấu với thiên nhiên để sống còn (xây dựng hệ thống đê điều, đào kinh mương để thoát lũ).
Văn hoá y phục cũng tùy khí hậu: người ở quanh sa mạc Sahara thì bận áo quần rộng, có màu trắng để dễ thoát hơi, để mặt trời phản chiếu ra ngoài thay vì phải hấp thụ như áo màu đen; người vùng có nhiều mưa lũ thì phải trồng lúa vì lúa thích nghi với đất ngập; như vậy văn hoá y phục, văn hoá ẩm thực v.v… tóm lại địa lí văn hoá (cultural geography) cũng khác nhau. Ta có thể kể ra muôn vàn ví dụ như trên để chứng tỏ các mối tương quan giữa Địa - Thủy - Phong - Hỏa .
            Tuy phân thành từng yếu tố Địa - Thủy - Phong - Hỏa nhưng thật ra không có các ranh giới giữa 4 phạm trù trên. Chúng tương quan, tương nhập mà tinh thần Phật học gọi là “Tất cả là Một và Một là Tất cả”. Vạn vật đều cùng chung một bản thể mà tư tưởng Phật giáo gọi bằng nhiều tên khác nhau như Bản lai diện mục, Chân Như, Thực tánh Thực Tướng. Trái đất này là Một, là toàn thể (holism, do chữ whole).
Trái đất này là một hệ thống trong đó đại dương, khí quyển, khí hậu và vỏ trái dất được điều chỉnh lần nhau dể có sự sống: vũ trụ này là một thực thể sống động tương tác với những dòng chảy năng lượng luân lưu. 
            Vậy cái Không trong Ngũ đại của người Chăm có thể hiểu rằng đó là Một, là toàn thể, là Brahma theo sự ảnh hưởng của Bàlamon !.

C/ Làng truyền thống, những yếu tố hình thành và sự biến đổi:
            Dựa vào thuật Phong Thủy để lựa chọn, hình thành một kết cấu - tổ chức một ngôi làng cổ bền vững.
            Thuật phong thủy thường được áp dụng để chọn đất khi xây thành quách, lập đô thị. Trong đó, lựa chọn khu vực thích hợp để lập Palei luôn là vấn đề vô cùng quan trọng, nó liên quan đến sự thịnh vượng hay suy vong của thành phố trong tương lai, thậm chí liên quan đến tiền đồ và vận mệnh của đất nước, làng xã.
            Người Chăm có câu  " Cek mưraong Kraong barak" ( Núi đằng Nam, Sông đằng Bắc ). Đó là Thuật phong thủy người Chăm để chỉ cho cách chọn địa thế khi lập làng/ ấp. Ta có thể dẫn giải về sự tương đồng Thuật này với những dân tộc khác cụ thể là người Kinh. Người kinh có câu: " Núi sông phục chầu " .
            Sông bắt nguồn từ núi, sông đi liền với Sông Nước. Núi đi liền với cặp Núi rừng. Sông chở nước, mang tính Thủy, tính âm, miền xuôi, thực hiên chức năng sinh thành sự sống, duy trì sự sống. Núi mang tính dương, chỉ nơi trên cao, miền ngược, đèo dốc,...Cặp Sông-Núi tuyệt nhiên là cặp Âm-Dương, Cha-Mẹ. Có chức năng sinh sản, duy trì sự sống. Nơi nào có cặp Sông-Núi. thì nơi đó được xem như vùng địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra và nuôi dưỡng những bậc hiền tài.
            Sông đằng bắc - Núi đằng nam cũng tương ứng với hai cực từ trường: cực Âm phía bắc - cực Dương phía nam; Mẹ phía bắc - cha phía nam.
            Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ những điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng, môi sinh trong lành làm cho con người có sức khỏe, tinh thần tốt mà lao động, sản xuất, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
            Đó là thuật phong thủy mà người xưa đã luận ra để tương ứng với việc chọn thế đất để lập Palei sao cho con người hòa hợp với tự nhiên, với môi sinh. Nhằm mang lại một môi sinh thuận lợi nhất.
            Về quy hoạch thì hầu như các Palei (làng/thôn) của Ninh Thuận được bố trí, quy hoạch theo hình chiếc lược. Bởi Ninh Thuận có địa hình hẹp về bề ngang. Lấy một trục chính làm chuẩn và rải rác các làng xã được bố trí bám theo trục chính đó (ở đây là trục giao thông quốc lộ 1A) với một trục giao thông nối giữa cụm Palei với trục chính đó.
            Hầu hết các Palei Chăm ở Ninh Thuận đều tọa trên mặt bằng cao ráo, bằng phẳng, bao bọc xung quanh là những cánh đồng, sông, hào. Với cách bố trí này tạo một lợi thế có thể phòng vệ với thú dữ (ngày xưa ), tránh ngập lụt, đón gió tốt hơn ở những vùng đất thấp. Cụm Palei bố trí trên bình diện hình chữ nhật hay tròn.
                                                Sơ đồ bố trí hình chiếc lược

            Người Chăm sống theo từng Palei, và theo từng nét sinh hoạt tôn giáo với nhau. Do chiến tranh và thời kì dồn dân lập ấp nên các Palei bị chia tách, không còn nguyên vẹn, nên có hiện tượng có các Palei bị phân bố rải rác và ít người Chăm sinh sống.
Mỗi Palei được hình thành trên một bình diện hình chữ nhật hay hình tròn. Bao gồm nhiều dòng tộc sống quây quần trong một không gian Apuh (rẫy) .
Mỗi palei có những trục đường chính lớn khoảng từ 10-16m theo trục Đông - Tây và Nam - Bắc.
             Các khuôn viên nhà ở được nối với nhau theo trục Bắc-Nam tạo thành từng dãy khuôn viên, và mỗi khuôn viên cách nhau một khoảng bằng 2 chiếc xe bò có thể đi ngược chiều nhau một cách thoải mái (6-8m). Và mỗi dãy khuôn viên cách nhau bằng một đường ngang đủ cho 2 người lớn có thể lưu thông dễ dàng (1,5-2m).
            Nên nhớ rằng xưa Chăm có một quy ước về phân chia giao thông giữa 2 dãy khuôn viên nhà liền kề với nhau là mỗi nhà tự chừa ra một phần đất của nhà mình khoảng 1-1,5m để làm đường giao thông nối giữa 2 khuôn viên nhà với nhau. (Một quy ước khá nhân văn nay vẫn còn dẫu bây giờ có nhiều biến đổi). Và mỗi khuôn viên nhà liền kề với nhau nếu không cần chừa lối giao thông nối thì lại sinh ra một quy ước tiếp nữa đó là : Phía bên hông trái 2 khuôn viên nhà liền kề với nhau được gia chủ đó tự xây - làm rào. Và cứ thế liên tếp phía bên hông phải của một khuôn viên sẽ được nhà liền kề khác xây - làm rào, được nối với nhau bằng giao thông ngang được gọi là Paga.
            Để hình thành một khuôn viên nhà truyền thống từ khâu chọn đất cho tới khi vào nhà mới, người  Chăm phải trải qua và tuân theo những quy tắc và lễ nghi theo quy trình tương ứng như sau:
            - Chọn đất làm nhà
            - Chọn thời gian xây cất nhà
            - Chuẩn bị nguyên vật liệu
            - Chọn hướng xây dựng
            - Lễ cúng đất ( thần đất )
            - Các nghi lễ trong quá trình dựng nhà: Lễ tẩy uế gỗ, Lễ động thổ ( đóng cọc ), Lễ dựng nhà, Lễ khánh thành nhà mới.
            - Lễ dựng ông Táo, đặt bếp.
            - Lễ dựng cửa ngõ

            Ngoài việc dựa vào thuật phong thủy để lựa chọn đất tốt, người Chăm còn có cách để thử/ biết đất đó là loại đất tốt/xấu, hay có bị người khác trấn yểm nhằm mục đích phá/ hại thế đất, gia chủ đó hay không bằng cách: Ông thầy lễ sẽ dùng ba chén cơm trắng vào một vị trí huyệt/long mạch của khu đất đó rồi làm lễ, sau 24h sẽ lấy 3 chén cơm đó ra và kiểm tra xem nếu chén cơm bị đen xám đi, nghĩa là đất xấu. Và cần phải làm lẽ cúng đất, tẩy uế.
....
            Người Chăm xưa quan niệm rằng cây to, rậm là nới trú ngụ của thần linh hay ma quỷ nên trong khuôn viên nhà thường không được trồng cây to trước nhà. Và không những chỉ có người Chăm mà người Kinh cũng có quan niệm về điều này. Vấn đề này có thể tìm và giải nghĩa theo một vài cách khác: Ở những vùng duyên hải miền trung, nơi thường xuyên xảy ra những cơn bão dữ thì việc trồng cây to trước nhà dễ bì bão đánh đổ và đè lên chính ngôi nhà của mình, gây thiệt hại tài sản, tính mạng nên việc hạn chế trồng cây to trước nhà có lẽ là hợp lí; Việc trồng cây to- rậm trước nhà còn mang lại tác hại có thể xảy đến do bởi những khí xấu bị ngưng tụ dưới nhứng tán lá rậm, hoặc ban đêm cây sẽ tiết ra khí/mùi hương xấu mà sẽ bị những luồng gió thổi chúng vào trong nhà,khi người hít phải có thể xảy ra hiện tượng trúng gió độc, hay lâu ngày sẽ gây ra các bệnh về đường hô hấp ; ...

I/ Những biến đổi của một ngôi nhà:
1. Biến đổi về khuôn viên:
            Tốc độ phát triển nhanh chóng, xã hội có nhiều bước chuyển biến đổi, dân số ngày một tăng nhanh khi kèm với nó là tài nguyên đất ở, đất canh tác ngày một thu hẹp. Khuôn viên truyền thống từ đó cũng dần bị thu hẹp, bởi những lí do chủ quan hay khách quan đó.
Số đơn vị nhà giảm đi từ 5-7 đơn vị nay còn 1-3 đơn vị là phổ biến.
Diện tích khuôn viên nhỏ dần ( do phát triển dân số - thiếu đất ). Các thế hệ trẻ nay đã tách ra khỏi khuôn viên đại gia đình để hình thành, tạo dựng cho mình một tiểu gia đình mới khi có điều kiện kinh tế.
Nếu so với trước đây, cả làng hay khuôn viên làng/ nhà truyền thống của người Chăm rất ít cây cối, cây to thì bây giờ điều đó đã không còn. Với trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, tầm hiểu biết rộng mở đã làm cho người Chăm biết cách kết hợp, trồng, ứng dụng những phát triển đó để trồng những loại cây phù hợp cho khuôn viên cảnh quan gia đình hay cả làng. Nên bây giờ các làng Chăm có rất nhiều cây và sân vườn đẹp.

2. Biến đổi về các đơn vị nhà:
            Như đã nêu trên, vì quá trình phát triển nhanh chóng, dân số tăng nhanh,... mà khuôn viên nhà truyền thống chăm cũng thay đổi theo cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Và theo đó mỗi đơn vị nhà cũng thay đổi theo so với khuôn viên truyền thống đó. Số đơn vị cũng ít đi, trước nay một khuôn viên truyền thống thường có từ 2-3 thế hệ cùng sống trong một khuông viên trong những đơn vị nhà riêng biệt, thì nay con số đã giảm và sống cùng chung một đơn vị nhà.
Sự khan hiếm về nguyên vật liệu truyền thống, đặc biệt là vật liệu gỗ và vật liệu mái lợp bằng cỏ tranh nên kết cấu truyền thống cũng thay đổi, thay vào đó là sự xuất hiện của những vật liệu hiện đại.
Các ngôi nhà sàn thấp truyền thống nay không còn, thay vào đó là các ngôi nhà trệt với nền đắp đất lát gạch nền, hay xi măng láng. Đa số những ngôi nhà truyền thống Chăm trước đây đều thấp, cửa ra vào hẹp,...không đảm bảo chiếu sáng, thông thoáng xuyên suốt nên không đáp ứng được nhu cầu hiện tại (đa số là lớp thế hệ trẻ sau này) và nguyên vật liệu mới. Nên dần dần thay vào đó là những ngôi nhà được xây mới khang trang, cao ráo rộng rãi hơn, phù hợp với vật liệu hiện đại và nhu - yêu cầu thẩm mỹ hiện đại.

II/ Cơ cấu của một khuôn viên nhà truyền thống Chăm:
1. Bố cục không gian của một khuôn viên nhà truyền thống Chăm:
            Khuôn viên nhà truyền thống Chăm là tập hợp bao gồm nhiều đơn vị nhà. Bao quanh là rào bằng cây thấp, tre, tagalau,...Tạo một không gian mở, kết nối với không gian bên ngoài bởi hàng rào, chỉ mang tính chất tượng trưng (cho ranh giới khu đất).
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình thì sẽ có từ 1 đến 7 đơn vị khác nhau và được xây dựng theo từng giai đoạn phù hợp. Mỗi năm chỉ được dựng nhà một lần.
Trong đó ta thường thấy có từ 3,5,7 đơn vị nhà điển hình như : Sang Ye, sang Mayau, sang Ton, sang Gar/ sang Lâm, thang Ging, và 2 căn nhà phụ dùng để nông cụ, cối xay lúa,...

2. Bố cục - tên gọi và chức năng từng đơn vị nhà:

            Sang Ye (Nhà tục) : Là loại nhà mà hầu hết các lễ tục, cưới hỏi, cúng ông bà, cúng thần,..đều được thực hiện trong nhà này. Gia chủ ngôi nhà sinh hoạt trong gian này.
Khi con gái lấy chồng thì bố mẹ sẽ nhường lại căn này để đôi vợ chồng mới cưới ở, cứ thế lần lượt các con gái kế tiếp, đến con gái út sẽ ở trong căn này. Sang Ye được xem là căn khởi nguyên trong tổng thể khuôn viên nhà truyền thống Chăm, cùng với sang Ging.
            Có mặt bằng hình chữ nhật, sàn bằng tre đập dập buộc thành mảng bằng dây rừng (dây mây). Có 3 gian, 4 mái. Dựng ở hướng đông - bắc trong khuôn viên.  Cửa chính mở hướng Tây, cửa phụ mở hướng nam. Tượng trưng cho cái miệng, mở đối diện với cửa. Mặt tiền Sang Ging hướng tây, đòn dong đặt theo chiều đông - tây (gốc phía đông, ngọn phía tây)
            Sang Gar/sang lâm (nhà khách): Thường những nhà có người làm chức sắc, quyền quý có tiền (Acar hồi giáo hay Bani) làm nhà này. Là đơn vị nhà có kích thước lớn nhất, cầu kì và tốn công sức của cải nhất để làm.
            Sang Gar: Có mặt bằng hình chữ nhật, có 2 gian, 4 mái. Dựng theo hướng Bắc - nam, liền kề và vuông góc với sang Ye. Mặt tiền hướng tây, đòn dong đặt theo chiều bắc - nam (ngọn phía bắc, gốc phía nam). Có 3 cửa ra vào, trong đó có 1 cửa hướng tây, 1 cửa hướng đông và 1 cửa hướng nam (đặt lệch về góc phía đông). Đặc biệt cửa hướng đông và  tây của sang Gar với cửa sang Ye nằm trên cùng một đường thẳng. Có thêm 2 cửa sổ.
            Sang Lâm: Có mặt bằng hình chữ nhật, đặt trung tâm khuôn viên. Dựng theo chiều Đông - Tây. Mặt tiền hướng nam, tiếp giáp liền kề với sang Ye. Đòn dong đặt theo chiều đông - tây (gốc phía đông, ngọn phía tây). Có 2 cửa chính mở về hướng nam và có thêm 1 cửa sổ. Đặc biệt thang Lâm là loại nhà sàn thấp, 2 lớp mái. Hàng hiên có những chấn song dựng đứng hình vuông, được đặt ngiêng. Mang giá trị thẩm mĩ cao và hiệu quả về chắn nắng, lấy sáng và thông gió.
            Sang Mayau (nhà bên, nhà song) hay có thể gọi là nhà phụ. Thường sau khi con gái lấy chồng thì cha mẹ sẽ cất lên cho đôi vợ chồng, và kể từ đó đôi vợ chồng và các con cái của đôi vợ chồng này chuyển sang ở và có thể tự lập bếp ăn riêng. Sang Mayau  là nhà sàn thấp, có kết cấu bằng gỗ, mái lợp tranh hay ngói, tường trình (đất) hay gỗ. Nền nhà được tôn cao bằng nền nhà Sang Ye, cửa ra vào được làm song song và mở cùng hướng với Sang Ye.
            Mặt bằng hình chữ nhật. Có 2 gian, 2 chái, 4 mái, hiên nhà phía trước. Phía ngoài hiên người ta cũng đặt song gỗ vuông dựng đứng đặt nghiêng cạnh như Sang Lâm. Có 2 cửa chính và 2 cửa sổ. Có 1 cửa chính mở về hướng tây, nhưng không được mở đối diện với cửa sang Ton, cửa phụ mở về hướng nam. Đòn dong đặt theo hướng đông - tây, song song với đòn dong sang Ye, có gốc hướng tây, ngọn hướng đông.
            Sang Ging (Nhà bếp) Tùy tình hình kinh tế và điều kiện mà người ta sẽ dựng riêng một căn nhà bếp để phục vụ nấu nướng. Sang Ging thường được dựng bên hông Sang Ton và nằm về phía Tây - Bắc của bố cục khuôn viên nhà truyền thống Chăm, mở cửa hướng đông hay Nam.
            Có mặt bằng hình chữ nhật, 4 mái, 2 gian, 3 bộ vì kèo. Đặt ở vị trí tây - bắc của khuôn viên. Hiên trước có sàn làm bằng tre đập dập, bện từng mảng bằng dây rừng. Sàn bên trong phủ thêm đất sét trên bề mặt khoảng 0,35 - 0,4m. Mặt tiền quay về hướng đông. Có một cửa chính mở về hướng đông và đối diện với cửa Sang Gar, Sang Ye tạo thành một đường thẳng. Đòn dong đặt theo chiều bắc - nam, gốc phía nam, ngọn phía bắc.
            Sang Ton (nhà kho, chứa lúa) Ngày xưa, người Chăm hay Raglai thường để nông sản (bắp, lúa, hoa màu,...) trong một cái chòi tranh nơi nương rẫy hay ngoài đồng. Về sau tình hình có phần thay đổi nên người ta dựng một căn Sang Ton để chứa lúa gạo, mắm muối ngay trong khuôn viên nhà ở.
            Mặt bằng hình chữ nhật. Có 3 gian, 4 mái. Nằm ở phía tây khuôn viên. Là nhà có nền cao nhất trong tất cả các đơn vị nhà còn lại. Có 1 cửa chính mở hướng đông, 3 cửa sổ. Cửa chính không được mở đối diện với thang Mayau, tạo thành thế xung khắc, đấu khẩu với nhau. Đòn dong đặt theo hướng bắc - nam, gốc phía bắc và ngọn phía nam.
            Hai căn nhà phụ. Tùy theo nhu cầu mà gia chủ sẽ dựng thêm căn nhà phụ này nhằm mục đích chứa nông cụ và để xây xát lúa gạo, nông phẩm. Hai căn này được dựng về phía Nam khuôn viên, ngay cạnh cổng ra vào để tiên đặt nông cụ,...Hai căn nhìn đối diên nhau.
            Song hiện nay mô hình bố cục của một khuôn viên nhà truyền thống Chăm đã không còn như xưa, thường chỉ còn lại khoảng 1 đến 3 đơn vị nhà và có sự thay đổi về mục đích chức năng. Điển hình như : sang Mayau, sang Ton, sang Ging. Với sang Ton không làm chức năng là nhà chứa nông sản như nhà truyền thống xưa nữa mà thay vào đó thành không gian nhà khách, nhà cho người trong gia đình chưa lập gia đình ở,...
            Các đơn vị nhà bố trí chặt chẽ, lấy Sân làm trung tâm. Nơi giao nhau giữa các máng xối của 3 đơn vị nhà (sang Ye, sang Gar, sang Mayau) tạo thành một điểm thoát nước mưa xuống mặt sân, tại đó được xác định là điểm hỏa của khuôn viên đất.

II/ Ngôi nhà truyền thống - Các yếu tố kĩ thuật - Giải pháp kiến trúc:
1. Các yếu tố kĩ thuật:
1.1. Kết cấu khung nhà:

            Kết cấu khung gỗ chịu lực Vì Cột, gồm các hệ thống chân cột được kê lên tảng đá xanh hay chôn dưới nền đất, đòn dong trên cùng được gác trên đầu 3 cột chính (vì 3 cột), 2 đòn tay, 2 xà ngang được gác trên hệ thống 6 cột phụ, các đà kêt nối các chân cột lại với nhau bằng  cách buộc dây mây, lắp mộng,... tạo thành tổng thể một hệ thống khung kết cấu gỗ vững chắc, chịu lực chính cho toàn bộ ngôi nhà.
            Sau này có một bước chuyển tiếp, thay đổi trong hệ thống khung gỗ chịu lực bằng cách sử dụng hệ kết cấu vì kèo. Song sang Lâm là trường hợp ngoại lệ, vẫn giữ nguyên hệ kết cấu vì cột như trước đây.
           
                                   
1.2. Kết cấu sàn:
            Kết cấu sàn nhà truyền thống của người Chăm là loại sàn lửng, thường cao hơn mặt đất một khoảng 0,5m. Tùy theo điều kiện kinh tế gia đình và từng thể loại đơn vị nhà cụ thể mà họ lựa chọn cho mình cách làm sàn cho phù hợp, có thể lát bằng sàn tre, sàn gỗ, hay sàn đắp đất sét.
Để làm sàn, trước tiên ta đặt các thanh gỗ ngang lên trên các hệ trên đà chân tường . Nếu sàn làm bằng gỗ thì những miếng gỗ này sẽ đặt lên trên hệ thanh gỗ ngang này, còn nếu làm sàn bằng tre thì sẽ đặt thêm thanh gỗ dọc để nẹp/ chặn lại sàn tre cho khỏi bị bung. Tre khi chặt về được uốn cho thẳng, sau đó cưa ra cho đúng/ phù hợp với kích thước sàn nhà rồi bổ đôi ra đập dập kết lại bằng dây rừng tạo thành từng mảng đặt trên thanh gỗ ngang chân tường.


                                                Sàn lửng - tre đập dập


1.3. Kết cấu Nóc - Mái:
            Hệ mái khung kết cấu vì kèo hay vì cột có quá giang, Các thanh đà ngang liên kết các bộ vì kèo hay vì cột đó tạo thành hệ khung kết cấu. Trên hệ vì cột ta bố trí các thanh rui, mè tạo thành mặt phẳng lợp mái.
Mái nhà truyền thống Chăm thường làm bằng những tấm lợp bằng cỏ Tranh, rạ,..bện chặt bằng dây rừng  thành từng mảng, sau đó lợp lên mái theo quy tắc từ dưới lên trên, lớp trên đặt trên lớp dưới cách nhau khoảng 15-20cm tùy theo độ dày mà chủ nhà mong muốn, lợp từ trước ra sau lên đến đỉnh nóc rồi vòng ra sau. Trên đỉnh thì gối lại, giằng bằng thanh tre hay cây rừng để tránh bị gió thổi tóc đỉnh mái.








            Hai lớp mái

1.4. Kết cấu tường ngăn:
            Hầu hết tường của nhà truyền thống người Chăm là loại tường đất sét trộn rơm, trát lên trên hệ khung xương bằng tre.
Trước khi trát đất, người ta làm hệ khung xương trước. Trên xà chân tường người ta đục các lỗ nhỏ cách đều nhau một khoảng 15cm-20cm, rồi dựng thẳng đứng các cọc bằng cây mằng tăng, có tác dụng giữ cố định không làm xê dịch hệ khung xương của tường. Các thanh ngang bằng tre chẻ đôi (cột trĩ) đặt vuông góc 2 phía với các cọc dựng đứng và buộc chặt lại từ trên xuống, cách nhau khoảng 10-15cm tạo thành các ô khung có kích thước 10-15cm x 15-20cm. Tạo thành hệ khung kết cấu lõi tường chắc chắn.
Để trộn chất liệu đất sét + rơm, Người ta đào một hố có kích thước khoảng  3x2x0.5m (d x r x c). Sau đó cho đất sét, rơm, đổ nước vào hố và dùng chân đạp/ trộn nhuyễn hỗn hợp đất sét đó lên. Công đoạn này đòi hỏi sức khỏe và tốn nhiều công sức nên thường có 2-3 người cùng đạp/ trộn đất sét với nhau.
Khi trát đất sét lên khung trĩ kết cấu của tường thì người ta đắp từ dưới lên trên, đắp đều về cả hai phía và cùng lúc. Luôn luôn đắp ở phía góc tường trước để định vị và cố định kết cấu tường vách đất.


                                                Cấu tạo tường


2. Quy cách và kích thước trong xây dựng:
            2.1. Quy trình - các bước xây dựng:
Để xây dựng ngôi nhà truyền thống. Người Chăm tuân thủ theo các trình tự như sau:
- Chọn được khu đất xây dựng là điều quan trọng nhất, phải vận dụng thuật phong thủy để chọn được vị trí khu đất phù hợp. Kế đến là chuẩn bị đầy đủ nguyên vật liệu xây dựng. Nhất là vật liệu gỗ.
Khuôn viên được rào lại bằng tre, lồ ô, cây tagalau (bằng lăng), xương rồng,...

Gỗ được khai thác trong rừng, thường sử dụng nhân công địa phương để đi tìm và khai thác đầy đủ số gỗ cần thiết. Quá trình này đòi hỏi nhiều thời gian và tốn nhiều công sức, với những quy định, kiêng kị khắt khe trong quá trình khai thác gỗ, nhất là loại gỗ dùng làm Sang Ye . Phải có một thợ cả (thợ Mộc) am hiểu về vật liệu gỗ, kích thước, những nguyên tắc, kiêng kị trong vấn đề khai thác gỗ.
Song song đó người ta chuẩn bị vật liệu lợp ngói. Cỏ tranh, lau lạch, rạ,...được cắt đem về phơi khô sau đó được bện chặt lại thành từng mảng bằng dây rừng.
Chọn ngày và hướng xây dựng trên khu đất được chọn trước đó. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên vật liệu cần thiết rồi tiến hành xây dựng. Người ta dùng sợi dây căng chéo bốn góc khu đất để xác định điểm giao nhau giữa hai đường chéo, đó là điểm đại hỏa. Tiến hành đóng cọc định vị cố định các điểm góc và ranh giới khu đất xây dựng. Ngôi nhà không được nằm trên điểm đại hỏa đã xác định từ trước, mà nằm lệch về một phía khu đất. Bắt đầu bằng việc xây đơn vị nhà đầu tiên là thang Dơ và những đơn vị kế tiếp theo thứ tự và điều kiện phù hợp.
Xác định kích thước ngôi nhà rồi dựng các cọc của bộ khung nhà bằng khung vì kèo hay vì cột có quá giang lên trên tảng đá hay chân cột được chôn dưới đất (đối với sang Yevà sang ging ).
Lắp đặt hệ thống sàn thấp bằng tre hoặc gỗ hay sàn đắp đất (tùy theo loại nhà),làm hệ khung kết cấu tường rồi trát hỗn hợp đất sét lên. Hệ thống kết cấu mái là công đoạn cuối cùng trong khi dựng một ngôi nhà, nếu là hệ hai lớp mái thì làm mái dưới trước rồi lợp mái trên bằng vật liệu lợp mái như tranh, lau lạch,...
Sân đất được san bằng phẳng, rải cát cho sạch.
Cổng ngõ trong truyền thống Chăm hết sức quan trọng, không bởi ở tính chất giao thông cho khuôn viên gia đình và còn ở tính chất tâm linh văn hóa truyền thống của Chăm.

            2.2. Các loại kích thước sử dụng trong xây dựng:
Tỉ lệ kích thước mỗi bộ phận cơ thể con người được sử dụng hầu hết trong mọi kích thước vật dụng, sinh hoạt liên quan đến con người, đặc biệt là trong lĩnh vực kiến trúc. Cũng như những dân tộc khác trên thế giới, người Chăm từ lâu đã sinh ra cho mình một quy ước, nguyên tắc phân chia kích thước quy định riêng cho mình. Từ những đơn vị tương ứng với mỗi bộ phận cơ thể người như: đốt ngón tay, gang tay, bàn tay, cánh tay, khuỷu tay, sải tay, sải bước chân, chiều cao cơ thể,...Người chăm đã ứng dụng đơn vị kích thước đó vào kích thước xây dựng một ngôi nhà.
Người Chăm xưa nay vẫn dùng gang tay làm kích thước đo hầu như cho mọi vật, và dùng gang tay để làm chuẩn đơn vị đo. Hiện nay mặc dù đã có thước (đơn vị đó là mét) để thay thế, nhưng người chăm vẫn còn thói quen dùng gang tay để làm đơn vị đo của họ.
Gang tay cũng được coi là một tỉ lệ chuẩn trên cơ thể người. Ví dụ đo từ đỉnh đầu tới gót chân bằng tám gang tay hay dang hai tay thẳng ngang vai và đo từ cánh tay này sang cánh tay bên kia cũng đủ tám gang tay. Có thể thấy rằng Chăm từ xưa đã biết và sử dụng gang tay làm kích thước chuẩn và đúng tỉ lệ để làm đơn vị đo riêng của mình.
Tùy vào thể loại (làm nhà, dựng rạp, đền đài, bếp,...) và chức năng mà có những đơn vị kích thước quy định khác nhau. Và luôn tạo ra số lẻ để đo kích thước bộ phận của một ngôi nhà, với quan niệm số lẻ là số dương.
Sau đây là tên gọi và kích thước chuẩn mà người Chăm hay sử dụng:
            - Hal (Khuỷu tay) : Được tính từ cùi chỏ đến đầu các ngón tay dài khoảng 0,5m.
            - Kagam (Gang tay ): Một kagam dài khoảng 0,20m.
            - Plah : Kích thước tính theo chiều ngang của bàn tay, dài khoảng 0,08m.
            - Ing gien : Kích thước tính từ ngón tay cái đến đầu ngón trỏ, dài khoảng 0,15m.
            -Thul : Là đơn vị nhỏ nhất, chiều ngang ngón tay cái.
            - Tuk kacei : Đốt ngón tay cái. ( 1 tuk kacei = 2 thul ).
            - Cambo : Được tính từ đầu ngón tay trỏ đến gốc ngón cái, dài khoảng 0,10m.
            - Bara : Tính từ khớp xương vai đến đầu ngón tay giữa, dài khoảng 0,80m.
            - Ahal : Tính từ cùi trỏ tay này đến cùi trỏ tay kia, dài khoảng 1m.
            - Tapa : Là chiều dài của sải tay, dài khoảng 1,5m.
            - Yam : Là chiều dài của một bước chân, dài khoảng 1m.

3. Các giải pháp kiến trúc:
            Chọn hướng xây dựng ngôi nhà là một việc làm quan trọng, việc làm trước tiên của người dân Việt Nam khi xây dựng ngôi nhà ở. Như chúng ta đã biết khí hậu nước ta mùa hè ẩm ướt có gió mát thổi từ biển vào (gió nam, đông nam), mùa đông khô có gió lạnh từ lục địa (gió bắc, đông bắc). Để đón được gió mát của mùa hè và tránh được gió rét của mùa đông, nhà ở nhân dân ta thường chọn quay về hướng Nam hay Đông - Nam. Mặt khác nhà quay về hướng này sẽ tránh được cái nắng tây xiên khoai bất lợi và chịu được gió bão lớn. Các công trình phụ hầu như được ẩn mình trong các vòm cây xanh của khu vườn, như cố tình nhờ sự che chở, đùm bọc của cây lá để chống chọi với gió bão, đồng thời tranh thủ tận hưởng luồng gió mát và bầu không khí trong lành từ những lùm cây này. Chọn hướng nhà tốt không những có ý nghĩa về mặt tâm linh mà còn thể hiện được tính khoa học trong kinh nghiệm chống nóng bức, làm mát ngôi nhà, cải thiện điều kiện vi khí hậu, tạo được môi trường cư trú thích nghi, góp phần tiết kiệm sử dụng năng lượng.
            Bố cục của khuôn viên nhà truyền thống người Chăm gồm những đơn vị nhà, mang những chức năng riêng biệt. Được bố trí phân tán, xoay quanh một cái sân là trung tâm. Trong đó ta thấy gồm các đơn vị nhà sau đây:
                        -Sang Ye là loại nhà ngang thường là nhà một trệt nằm trên trục Đông-Tây, mở cửa hướng Nam đón gió mát. Sang Gar còn có tác dụng che chắn bớt làn gió Bấc lạnh thổi từ hướng Bắc, Đông Bắc.
                        - Sang Mayau là một loại nhà ngang được bố trí dọc theo trục Đông - Tây, mở cửa song song cùng hướng với Sang Ye, nền cao bằng Sang Ye, cho phép nắng ấm buổi sáng chiếu vào toàn bộ khuôn viên, thường thấp hơn Sang Ton, để không cản bớt nắng tốt buổi sáng chiếu vào. Đón gió mát từ hướng Nam.
                        - Sang Ton là loại nhà ngang được bố trí dọc theo hướng Bắc Nam, mở cửa hướng Đông, thường cao hơn Sang Mayau. Có hiệu quả tốt trong việc che chắn bớt nắng chiều hướng tây cho cả khuôn viên, mở cửa đón nắng sáng tốt hướng Đông.
                        - Một loạt những công trình phụ, hòa nhập và nằm xen kẻ, kế bên hông những loại nhà Ngang, lớn. Chúng hài hòa vào tổng thể bố cục khuôn viên có tác dụng tạo thành những dòng đối lưu không khí, cản bớt, nhận được sự che chở của những nhà ngang kia.
            Bố cục khuôn viên nhà truyền thống người Chăm mang những nét đặc sắc riêng, đậm nét làng quê Việt Nam. Là một quần thể bao gồm những đơn vị nhà được sắp xếp, bố cục phân tán vây quanh và lấy sân làm trung tâm, tạo nên một không gian đệm. Cách bố cục này kết hợp sân vườn, giếng nước, công trình phụ,...trong khuôn viên nhà truyền thống người Chăm đều hài hòa với cảnh quan thiên nhiên đã tạo nên được một bố cục tương đối hoàn chỉnh, cân bằng và ổn định.
            Đặc biệt là cái Sân, có nhiều tác dụng rõ rệt. Với người Chăm có cái sân rộng lớn hết sức quan trọng, bởi nó là nơi diễn ra mọi hoạt động lao động sinh hoạt. Nơi tổ chức đám cưới, hội họp, ma chay, phơi phóng,...Và cũng là nơi lưu thông, tạo ra những luồng gió đối lưu.
Cái sân phơi đa chức năng nằm ở trung tâm khuôn viên, vì đó không những là nơi diễn ra các sinh hoạt chủ yếu của một gia đình mà còn làm nhiệm vụ điều hòa, cải tạo điều kiện vi khí hậu địa phương, góp phần tích cực phục hồi sức khỏe cho người dân sau một ngày lao động vất vả.
            Tương phản với bề mặt sân được nung nóng và khoảng đất trống, vườn cây góp phần tạo dòng khí mát đối lưu hai chiều trong những ngày hè nóng nực.
            Từ những kinh nghiệm này, Ông cha ta đã áp dụng vào trong những giải pháp cho những ngôi nhà ống nơi phố cổ và được các nhà quy hoạch ngày nay đã đưa nó vào khuôn viên công viên, chung cư, nhà phố,...tạo thành dòng đối lưu cân bằng âm, dương góp phần nâng cao tiện nghi sống cho người dân đô thị hôm nay cũng như giúp họ sử dụng năng lượng hiêu quả.
Một bố cục cân đối, tổng thể hoàn chỉnh, bao gồm nhiều đơn vị nhà có chức năng và nhiệm vụ riêng biệt, liên hệ mật thiết với nhau. Phản ánh một tổ chức lối sống cộng đồng văn minh, mà hiếm thấy ở những dân tộc khác.
3. Nhà truyền thống Chăm và những tiêu chí Kiến trúc xanh:
                        3.1. Về Vật liệu:
            Gỗ, tre, tranh, ngói gạch, đá, đất sét trộn rơm. Là những vật liệu truyền thống có sẵn tại địa phương, dễ tìm và thân thiện với môi trường.
Nó giảm thiểu được vấn nạn "Nóng toàn cầu", "Hiệu ứng nhà kính".
Có chỉ số phát thải CO2 hấp nhất trong tất cả vật liệu xây dựng thông thường như hiên nay: gạch, xi măng, sắt thép,...
                        3.2. Về Kết Cấu:
Nhà truyền thống người Chăm có hệ kết cấu khung gỗ chịu lực. Các cột gỗ đều được đặt trên những phiến đá, nhằm chống mối mọt gây ảnh hưởng tới chân cột gỗ.
Kết cấu bao che tường bao bằng gỗ ghép mộng, đất sét nhào rơm, khung nứa.
Kết cấu 2 lớp mái, hệ vì kèo khung gỗ chịu lực, liên kết mộng, không đóng đinh.
                        3.3. Yếu tố Vật lí kiến trúc:
            Khuôn viên nhà truyền thống người chăm có bố cục cân bằng với tự nhiên. Tạo một khoảng sân trong rộng ngay chính giữa khuôn viên.
Sân trong giải quyết điều hòa dòng lưu thông khí quyển cân bằng cho toàn bộ khuôn viên nhà.
             Nước ta có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là ở khu vực Miền Trung. Trong đó Ninh thuận là nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực và cả nước. Hằng ngày phải chịu một lượng bức xạ mặt trời lớn nhất và độ ẩm cao. Chính vì thế mà người Chăm đã hình thành nên một kinh nghiệm riêng trong việc sử dụng vật liệu, cấu trúc tường mái một cách hiệu quả nhất. Bằng cách sử dụng loại tường mỏng, vách đan bằng tre, nứa, gỗ, hay đất sét trộn rơm trát lên khung tre. Với cấu tạo loại tường này thì vào buổi trưa thường bị bức xạ mặt trời xâm nhập dễ dàng, nhưng lúc chiều nó lại tạo điều kiện cho khí nóng thoát ra khỏi nhà một cách nhanh chóng, làm cho ngôi nhà chóng mát hơn.
            Để giải quyết và bổ trợ cho loại tường mỏng bằng đất sét trát vữa trên khung tre, người Chăm đã biết cách tạo không gian đệm bằng hàng hiên và một hệ thống lam che linh động có thể tháo rời để tán xạ bớt bức xạ trực tiếp của mặt trời tác động lên hệ thống tường bao. Và cũng là một nét tạo hình mặt tiền đặc trưng riêng, mà ngày nay ta có thể thấy được áp dụng cho những ngôi nhà hiện đại cho giải pháp chắn nắng hướng tây.
            Sàn cách mặt đất từ 30-50cm. Tạo một khoảng hở với mặt đất nhằm cách ẩm với mặt đất, lợi dụng luồn gió đối lưu tự nhiên để thổi, thoát khí nóng, ẩm phản xạ từ mặt đất dưới sàn nhà lên.
            Hệ 2 lớp mái. Với lớp mái trên được lợp bằng tranh hay ngói. Lớp mái dưới làm bằng đất sét trộn rơm bện trên khung tre tạo thành một lớp mái dày khoảng 15-30cm.  Là loại vật liệu địa phương, thân thiện với môi trường. Loại vật liệu này có ưu điểm là thoát khí nhanh vào buổi chiều (do thời gian hấp thụ ánh nắng mặt trời trong ngày). Với hai lớp mái cách nhau tạo thành một lớp đệm không khí làm giảm lượng nhiệt bức xạ của mặt trời tác động vào trong nhà qua lớp mái. Đồng thời tận dụng dòng đối lưu hông khí để thải, thổi bay lương nhiệt nóng bên trong khoảng không giữa hai lớp mái.
           
III/ Những yếu tố liên quan đến một ngôi nhà truyền thống Chăm:
1. Các phong tục tập quán liên quan đến qua trình xây dựng một ngôi nhà
            - Chọn đất làm nhà
            - Chuẩn bị nguyên vật liệu
            - Chọn hướng xây cất
            - Chọn thời gian xây cất
            - Các nghi lễ liên quan trong thời gian xây dựng
            - Lễ dựng ông táo
            - Lễ dựng ngõ ( cổng chính )
            - Lễ đào giếng

2. Ý nghĩa từng tháng trong năm theo lịch Chăm và thời gian xây cất nhà.
            Theo lịch Chăm, từ mùng 1 đến 15 thuộc các ngày thượng tuần trăng, từ 16 đến 30 thuộc các ngày hạ tuần trăng. Người Chăm chọn các ngày 2, 6, 10, 12 của hạ tuần trăng, và trong các ngày trong tuần, chọn ngày thứ hai, thứ tư, thứ bảy và chủ nhật là các ngày có thể dựng nhà. Tuy nhiên người Chăm hay chọn ngày thứ tư là nhiều, ngày giữa tuần, ngày Thổ, làm nhà ở thì mát mẻ, sinh nhiều con cái.
            Tháng 1: Là tháng khởi nguồn đầu năm, dành riêng cho việc lễ cúng trừ ôn ở nhà làng, sau đó là lễ cúng cầu an cho các gia đình, dòng họ.
            Tháng 2: Làm lễ cúng trời đất ở ngã ba sông, lễ cúng khai mương máng. Cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
            Tháng 3: Liên quan đến nông nghiệp, gieo trồng, thu hoạch, ấm no hạnh phúc. Thích hợp cho việc dựng nhà, cưới xin, đầu tư sản xuất.
            Tháng 4: Là tháng Hao tài, tốn của, tháng liên quan đến tang ma. Không thích hợp cho làm nhà, cưới xin, xuất hành đi xa.
            Tháng 5: Tháng Hao tài, tôn của. Không làm nhà, đám cưới.
            Tháng 6: Tiểu hỉ, làm đám hỏi, đám cưới. Nếu làm nhà thì làm sau ngày 15 trở đi.
            Tháng 7: Đại hao, làm lễ cầu an các vị thần tại các đền, tháp. Không làm nhà, đám cưới.
            Tháng 8: Đại hỉ, làm nhà, cưới hỏi.
            Tháng 9: Tháng xấu. Không làm nhà, cưới hỏi.
            Tháng 10: Đại lộc, thu hoạch hoa màu. Làm lễ cúng bái cầu an ở nhà làng, nhà, dòng họ. Làm nhà, cưới hỏi từ ngày 15 trở ra.
            Tháng 11: Đại hỉ, làm tất cả công việc đều tốt. Từ ngày 15 trở ra làm lễ đám cưới, dựng nhà.
            Tháng 12: Tháng Đại hỏa. Không làm các lễ cúng, tối kị đám cưới, làm và dựng nhà.
Như vậy theo lịch Chăm ( Sakawi ) ta thấy những tháng thích hợp cho việc dựng làm nhà vào các tháng 3, 6, 8, 10, 11. Các tháng còn lại thì kiêng kị, không phù hợp.
           
D/ Kết luận:
1. Nhận xét:
Nhà Chăm - còn đó những trăn trở:
Ở nhiều nơi như Ninh Thuận, Bình Thuận và nhiều tỉnh thành khác có người Chăm sinh sống thì thấy rằng hiện nay những khuôn viên/ ngôi nhà Chăm truyền thống đã hầu như không còn. Nếu còn thì chỉ còn 1 - 2 đơn vị nhà truyền thống, nhưng đã không còn vẻ nguyên vẹn của kiến trúc truyền thống xưa. Mà thay vào đó là những căn nhà Trệt biến thể của căn nhà truyền thống xưa kia, mang dáng vẻ của những ngôi nhà hiện đại từ nguyên vật liệu xây cất đến cấu trúc của nó.
Khuông viên truyền thống Chăm xưa với cấu trúc năm hay bảy ngôi nhà vây quanh nhau, trung tâm là một sân trong với các tên gọi: Sang ging (nhà bếp); Sang Ye (nhà tục – nơi tổ chức nghi lễ ); Sang lâm/Sang gar (nhà làm khi con gái lớn lấy chồng); sang mayau (nhà làm khi con gái thứ 2 lấy chồng); sang ton (nhà bố mẹ, người già hoặc người có chức sắc ở), và 2 nhà phụ để dụng cụ sản xuất...


Ngôi nhà Chăm truyền thống tại Bảo tàng Dân tộc học

Dù sống trong những ngôi nhà khác xa so với ngày xưa nhưng người Chăm hiện nay vẫn giữ được một số nét văn hóa truyền thống của mình. Chẳng hạn trong ngày cưới, cô dâu chú rể vẫn trải chiếu 2 lớp nằm trên sàn nhà, còn sau đó lại nằm giường như người Kinh. Hay một số kiêng kị trong văn hóa vẫn được lưu giữ ở địa phương như sinh ra ở ngôi nhà nào thì chết tại ngôi nhà đó hoặc khi vào nhà người Chăm kiêng không huýt gió, không chắp tay phía sau, không đứng ngó nghiêng bên ngoài mà phải đi thẳng vào nhà...

Khuôn viên/ ngôi nhà Chăm truyền thống chính là những di vật của thời đại cần được bảo tồn, gìn giữ. Bởi những giá trị văn hóa, lịch sử khác biệt và tính ứng dụng, thích ứng với khí hậu địa phương. Một bước tiến mới để nghiên cứu và ứng dụng những giải pháp tối ưu của giá trị kiến trúc truyền thống địa phương cho thiết kế giải pháp ứng dụng cho vật liệu hiện đại cho kiến trúc hiện tại và tương lai.

2. Kiến nghị, đề xuất:
 Khôi phục bảo tồn và ứng dụng giải pháp kiến trúc cho kiến trúc hiện đại.
Khi tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, kiến trúc nông thôn, truyền thống biến đổi nhanh chóng trở thành nơi tập trung đông dân cư, khó có thể xác định dâu là thị tứ, thị trấn hay nông thôn. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng quá trình đô thị hóa, kiến trúc hiện đại với sự tiện lợi của nó đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn với những trang thiết bị hiện đại.
Tuy nhiên để không phá vỡ, đánh mất giá trị truyền thống, nét văn hóa dân tộc mà cha ông đã để lại thì đòi hỏi mỗi cá nhân, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học chuyên môn cùng bắt tay vào việc nghiên cứu và ứng dụng cái tinh hoa của cha ông để phục vụ cho thế hệ mai sau là điều hết sức cần thiết. Tạo một thế cân bằng giữa con người và tự nhiên. Việc tôn trọng tự nhiên cũng chính là không phá vỡ thế cân bằng tiểu vũ trụ trong chính bản thân mình.

Tài liệu tham khảo:

1. Dữ liệu kiến trúc sư - Neufert

2. Làng truyền thống Việt Nam.

3. Tạp chí Kiến trúc Việt Nam - Số 11/6 : Làng truyền thống Bắc Bộ.

4. Nghi lễ Vòng đời của người Chăm Ahier ở ninh Thuận - Nxb. Văn hoá Dân tộc - Ts. Phan Quốc Anh.

5. Kiến trúc Nhiệt đới ẩm - Nxb. Xây dựng - PGs. Ts. Hoàng huy Thắng.

6. Hơi thở Nhiệt đới - Nxb. Văn hoá văn nghệ - KTS. Nguyễn Văn Tất.

7. Văn Hoá kiến trúc - Nxb. Tri Thức - Hoàng Đạo Kính.

8. Văn hoá Chăm - Nxb. Khoa học xã hội - Phan xuân Biên và các tác giả.

9. Kiến trúc sinh khí hậu - Nxb. Xây dựng - PGs.Ts. Phạm Đức Nguyên.

10. Nhà ở cổ truyền : Tập I, Tập II - Nguyễn khắc Tụng.

11. Văn hoá làng truyền thống Người Chăm tỉnh Ninh Thuận - Nxb. Dân trí Hà Nội - Sử Văn Ngọc.

12. Tháp cổ Chăm Pa - Nxb. Văn hoá thông tin, Hà nội - Ngô Văn Doanh.

13. Dân tộc Chăm lược sử, Hiệp hội Chăm Hồi giáo Sài gòn - Dorohiem, Dohamide.

14. Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ - Hội Dân tộc học việt nam - Tạ Đức.

15. Lễ hội của người Chăm - Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà nội - Sakaya.

16. Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam - Nxb. Mỹ thuật, Hà nội - Chu quang Trú.

17. Văn hoá Chăm, những yếu tố bản địa và bản địa hoá - Tạp chí Dân tộc học - Phan Xuân Biên.

2 nhận xét:

  1. Chú chú đồ hình khuôn viên bị lạc trôi so với bài viết, người đọc không liên kết được thông tin và đồ hình.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. II-2. Đồ hình Mặt bằng Khuôn viên.

      Xóa